Bắt đầu từ nền tảng công dân số

Khi công nghệ thông tin đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống, thế hệ trẻ tại Việt Nam cũng tiếp xúc sớm hơn với các thiết bị điện tử, mạng xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc trang bị cho các em những kiến thức và kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ một cách có trách nhiệm, hiệu quả và an toàn.
Giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh tiểu học là yêu cầu đặc biệt quan trọng.
Giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh tiểu học là yêu cầu đặc biệt quan trọng.

THEO Báo cáo Digital Việt Nam 2024 của Datareportal và Wearesocial, tính đến tháng 1/2024, nước ta có khoảng 78,44 triệu người dùng internet, tương đương mức 79,1% dân số. Trong đó, 96,6% số người dùng internet truy cập qua điện thoại.

Trung bình, mỗi năm có khoảng 502 nghìn người mới tham gia sử dụng internet. Ba mục đích sử dụng internet nhiều nhất của người Việt theo thứ tự lần lượt là: giữ liên lạc với gia đình và bạn bè (chiếm 66,8%), tìm kiếm thông tin (63,7%), cập nhật tin tức và sự kiện (59,6%). Giáo dục và các mục đích học tập đứng thứ 12, chiếm 37,6%.

Sự phát triển của mạng xã hội và các phương tiện truyền thông mang đến cơ hội khám phá, học tập, tìm kiếm và chia sẻ thông tin gần như vô tận cho tất cả mọi người, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên. Tuy nhiên, vẫn luôn tồn tại những mặt trái dễ dàng tác động xấu tới nhận thức, hành vi và lối sống của giới trẻ, nếu các em không được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng kiểm soát và lựa chọn thông tin trên mạng.

Khi không được định hướng rõ ràng, thanh thiếu niên rất dễ bị cuốn vào vòng xoáy sống ảo hoặc trở thành những “anh hùng bàn phím”. Vụ việc một nam sinh viên chuyển khoản ủng hộ đồng bào vùng lũ 10.000 đồng với nội dung “tap the ae rap xiec trung uong ung ho” khiến mọi người hiểu nhầm, hay tình trạng các KOL, TikToker đăng tải thông tin sai sự thật bị lột trần đã cho thấy sự ngây thơ của một bộ phận không nhỏ người dùng trẻ. Họ không biết rằng mọi hành động đều để lại dấu chân số, và sẽ dễ dàng bị truy vết dữ liệu cá nhân.

HỘI đồng châu Âu (EC) định nghĩa kỹ năng công dân số là cách thức cá nhân hành động và tương tác trực tuyến, bao gồm các giá trị, thái độ, kỹ năng, kiến thức, sự hiểu biết cần thiết để điều hướng một cách có trách nhiệm trong thế giới kỹ thuật số, và để định hình công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, thay vì bị công nghệ định hình. Chương trình Giáo dục công dân kỹ thuật số của EC được thiết kế với mục tiêu cung cấp cho công dân trẻ cơ hội sáng tạo, phát triển những giá trị, thái độ, kỹ năng và kiến thức cần thiết để có thể tham gia đầy đủ, có trách nhiệm trong môi trường số.

Tại Việt Nam, giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh tiểu học cũng được xem là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt. Điển hình như tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau khoảng thời gian thí điểm, hoạt động này đã được triển khai tại tất cả cơ sở giáo dục tiểu học trong năm học 2024-2025.

Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh quy định có bốn hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh tiểu học năm học 2024-2025, bao gồm: Dạy học môn Tin học theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 cấp tiểu học; tích hợp giáo dục kỹ năng công dân số trong dạy học các môn học, hoạt động giáo dục; dạy học tăng cường giáo dục kỹ năng công dân số; và Tổ chức câu lạc bộ giáo dục kỹ năng công dân số.

Trong đó, việc thiết kế và tổ chức dạy học bài học tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng công dân số có thể sử dụng hình thức bài học STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học), theo một trong hai tiến trình thiết kế kỹ thuật hay nghiên cứu khoa học. Còn với hình thức dạy tăng cường, có thể dạy trải đều khoảng một đến hai tiết mỗi tuần hoặc xây dựng thành các chủ đề theo từng giai đoạn. Việc tăng cường nội dung giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh lớp 1 và 2 hướng đến mục tiêu hình thành sớm các kỹ năng cần thiết cho công dân số, làm cơ sở để các em tiếp cận và học tập thuận lợi môn Tin học ở các lớp tiếp theo.

“GIÁO dục kỹ năng công dân số giúp học sinh tiểu học có được kỹ năng tư duy phản biện, giúp nhận biết thông tin đúng sai, phân biệt nội dung tích cực và tiêu cực trên mạng; kỹ năng giao tiếp, giúp tương tác hiệu quả với người khác trên môi trường mạng, xây dựng các mối quan hệ lành mạnh; kỹ năng bảo vệ bản thân, giúp tránh xa các nguy cơ trên mạng như lừa đảo, xâm hại, bạo lực mạng; kỹ năng sáng tạo để tạo ra các sản phẩm số, tham gia vào các hoạt động sáng tạo trên môi trường số”, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội Trần Lưu Hoa nhấn mạnh.

Dựa trên nội dung Bài 13 của Tài liệu tập huấn triển khai thí điểm Giáo dục Kỹ năng Công dân số theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 cấp Tiểu học, học sinh lớp 3 sẽ khám phá phương pháp đánh giá thông tin thu được là tin cậy hay không tin cậy. Các em được giáo viên hướng dẫn cách xác định ngày đăng tin, tên tác giả, nguồn trích dẫn, địa chỉ hay tên miền của trang web.

Thông tin được xem là tin cậy nếu có tác giả rõ ràng, ngày đăng hoặc cập nhật không quá một năm so thời điểm hiện tại. Các trang web có đuôi .edu, .org hay .gov có độ tin cậy cao hơn...

Thí dụ trên là một trong số những bài dạy tiêu biểu ở cấp tiểu học. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của các nền tảng kỹ thuật số, giải pháp hiệu quả nhất vẫn là việc khuyến khích quá trình học tập suốt đời, đồng thời liên tục tổ chức các chiến dịch tuyên truyền để nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ.

Như Bill Gates từng nhận định: Công nghệ chỉ là một công cụ. Để giúp trẻ em làm việc cùng nhau và thúc đẩy chúng, giáo viên là người quan trọng nhất.

Với thời lượng môn Tin học một tiết mỗi tuần tại Việt Nam, việc giáo dục kỹ năng công dân số, nếu chỉ tập trung ở bộ môn này, chắc chắn sẽ khó đạt hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên, nếu tất cả các giáo viên đều được trang bị nền tảng vững chắc và khả năng lan tỏa kiến thức về kỹ năng trong thời đại số, bản thân họ sẽ góp phần đào tạo nên những thế hệ công dân trẻ sẵn sàng làm chủ công nghệ.

Trẻ em Việt Nam được dùng điện thoại sớm bốn năm so với thế giới. Độ tuổi trung bình sở hữu điện thoại ở nước ta là chín tuổi, còn trên thế giới là 13 tuổi. Khi sử dụng internet, có tới 40% số trẻ cảm thấy không an toàn, hơn 70% từng có trải nghiệm không mong muốn.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.