Ấn Độ "khuấy động lòng biển, tìm thuốc trường sinh"

Được đặt mật danh "Samudra Manthana" (một sự tích trong Hindu giáo nói về việc các vị thần khuấy động đại dương tìm thuốc trường sinh), "Sứ mệnh thăm dò nước sâu quốc gia" mà Thủ tướng Narendra Modi công bố hồi tháng 8 là nỗ lực mới nhất của Ấn Độ nhằm bảo đảm tự chủ năng lượng.

Ấn Độ "khuấy động lòng biển, tìm thuốc trường sinh"

Mệnh lệnh của thời đại

Ấn Độ hiện đang phải nhập khẩu tới 80% lượng dầu thô, 50% lượng khí nén thiên nhiên (CNG) và khí hóa lỏng (LNG) để đáp ứng nhu cầu năng lượng của hơn 1,4 tỷ dân. Với dân số và tốc độ phát triển tiếp tục tăng, việc tìm kiếm các giải pháp bảo đảm nguồn cung năng lượng tự chủ và ổn định đang trở thành ưu tiên hàng đầu của quốc gia Nam Á này, đặc biệt trong bối cảnh những biến động địa chính trị phức tạp hiện nay đang tạo ra nhiều thách thức đối với bài toán an ninh năng lượng.

Theo Thủ tướng Narendra Modi, việc giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu không chỉ là một mệnh lệnh kinh tế mà còn là vấn đề an ninh quốc gia. Sản lượng dầu khí trong nước, nếu được tăng lên đáng kể, cũng sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ khỏi những cú sốc giá cả toàn cầu. Và, trong một nỗ lực hướng tới mục tiêu ấy, Ấn Độ đã khởi động "Sứ mệnh thăm dò nước sâu quốc gia" - sáng kiến chiến lược được Thủ tướng Narendra Modi công bố nhân Ngày Quốc khánh 15/8/2025 - nhằm khai thác trữ lượng dầu khí ở những vùng nước sâu và siêu sâu.

Mang mật danh "Samudra Manthana", sứ mệnh này sẽ tập trung vào các lưu vực như Andaman-Nicobar (nơi có khoảng 1 triệu km² mặt biển vừa được cho phép thăm dò), Vịnh Bengal và ngoài khơi phía Tây (Saurashtra, Mumbai High).

Tham vọng của Ấn Độ, theo Bộ trưởng Dầu khí Hardeep Singh Puri, là thúc đẩy nội địa hóa theo phương châm "Sản xuất tại Ấn Độ", tăng gấp đôi dự trữ dầu khí quốc gia vào năm 2032 và tăng gấp ba sản lượng hiện tại vào năm 2047. "Trữ lượng dầu khí khai thác được thông qua hoạt động thăm dò nước sâu sẽ thay đổi diện mạo đất nước", ông Puri nhấn mạnh.

"Samudra Manthana" đồng thời cũng là sự mở rộng của "Sứ mệnh Đại dương" mà New Delhi khởi động từ năm 2021 như một phần của tầm nhìn "Ấn Độ Mới vào năm 2030". Theo Bộ Khoa học Trái đất Ấn Độ, việc thăm dò biển sâu sẽ thúc đẩy đổi mới trong kỹ thuật khai thác ngoài khơi, đánh giá tài nguyên và có thể đóng góp cho "Sứ mệnh Khoáng sản quan trọng Quốc gia", một trụ cột khác của nền "kinh tế xanh" mà Ấn Độ đang hướng đến, với mục tiêu thăm dò khoáng sản tại 1.200 địa điểm trên khắp đất nước.

Theo báo điện tử The Print, "Samudra Manthana" sẽ triển khai các công nghệ tiên tiến bao gồm tàu ​​ngầm có người lái MATSYA-6000 với khả năng mang theo thủy thủ đoàn ba người xuống tới độ sâu 6.000 m, các thiết bị tự hành dưới nước và tàu lập bản đồ đại dương hiện đại. New Delhi cũng sẽ thành lập một quỹ đầu tư chuyên trách hỗ trợ hoạt động thăm dò dầu khí ở vùng nước siêu sâu, bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định.

Tới hiện tại, Ấn Độ đã hoàn thành khảo sát địa chất 3D trên hơn 1.000 km2 ở lưu vực Kerala-Konkan, với một số lô ngoài khơi đã được dọn sạch để khoan thăm dò. Tháng 12/2024, nhóm nghiên cứu của Viện Công nghệ Đại dương Quốc gia (NIOT) đã phát hiện một lỗ thông thủy nhiệt dưới độ sâu khoảng 4.500 m ở Ấn Độ Dương. Thành tựu này cho thấy tiềm năng khoáng sản sạch (niken, coban cho pin xe điện) và là động lực to lớn thúc đẩy các nhà khoa học tiếp tục sứ mệnh.

Trong khi đó, tàu ngầm MATSYA-6000 đã trải qua quá trình thử nghiệm thành công. Các thợ lặn Ấn Độ, trong nỗ lực chuẩn bị vận hành MATSYA-6000, cũng xuống tới độ sâu 4.025 m và 5.002 m ở Đại Tây Dương vào tháng 8/2025 trên một con tàu của Pháp. Dự kiến, tàu MATSYA-6000 có thể được triển khai vào năm 2027.

Cơ hội song hành thách thức

Với "Samudra Manthana", Ấn Độ đang trên đường bắt kịp các cường quốc thăm dò nước sâu, trở thành quốc gia thứ sáu trên thế giới có sứ mệnh biển sâu riêng (sau Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp), tập trung vào Khu vực Đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa.

Dù có ý nghĩa chiến lược rất lớn và những lợi ích tiềm năng rộng mở, song thách thức đối với sứ mệnh "Samudra Manthana" cũng không kém phần nặng nề.

Hầu hết các phát hiện dầu khí lớn của Ấn Độ - chẳng hạn như KG-D6 của Reliance và KG-DWN-98/2 của ONGC - đều hiện hữu trước năm 2014. Kể từ đó, hoạt động thăm dò đã chậm lại, do tính phức tạp về địa chất và khả năng tiếp cận hạn chế. Trong khi đó, hoạt động thăm dò biển sâu rất phức tạp về mặt công nghệ, cực kỳ tốn kém (khoan nước sâu tốn gấp 5-10 lần so với khoan ở ven biển) và tiềm ẩn nhiều yếu tố nhạy cảm về môi trường, như ô nhiễm tiếng ồn, độ rung và ánh sáng; hay rò rỉ và tràn nhiên liệu cũng như các hóa chất khác được sử dụng trong quá trình khai thác. Không chỉ vậy, sau quá trình khai thác, các luồng trầm tích bùn đôi khi được bơm trở lại biển và có thể gây hại cho các loài ăn lọc như san hô và bọt biển, hoặc ảnh hưởng đến một số sinh vật khác.

Trước những lo ngại này, Chính phủ Ấn Độ nhiều lần nhấn mạnh: Các hoạt động thăm dò, đặc biệt là ở những khu vực dễ bị tổn thương như Biển Andaman, sẽ được tiến hành thận trọng để bảo vệ hệ sinh thái biển. Hiện tại, Ấn Độ cũng hợp tác với Pháp để học hỏi khía cạnh bảo vệ môi trường trong các sứ mệnh thăm dò, khai thác vùng nước sâu.

Điều quan trọng nhất, dù sẽ không chấm dứt sự phụ thuộc của Ấn Độ vào nhập khẩu ngay lập tức, nhưng sứ mệnh này của Ấn Độ có thể định hình lại quỹ đạo năng lượng của quốc gia, tạo ra sự cân bằng thực tế giữa tự lực, an ninh và bền vững, như phép ẩn dụ trong tên gọi "Samudra Manthana" ■

Nếu thực hiện tốt, "Samudra Manthana" có thể đánh dấu một bước ngoặt, vừa khai phá tiềm năng to lớn của đại dương, đồng thời khẳng định vai trò dẫn dắt của quốc gia này tại Ấn Độ Dương và tăng cường hợp tác quốc tế.

Có thể bạn quan tâm

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung.