Nữ hoàng của bầu trời

A-mê-li-a Ơ-hác (Amelia Earhart, 1897-1937) đam mê những chuyến bay. 40 năm ngắn ngủi mà bà đã sống cháy bỏng, đến giờ vẫn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ.

Nữ hoàng của bầu trời

“Chuyến bay” đầu tiên

Khi còn nhỏ, Amelia Earhart đã hoàn toàn khác biệt với những bé gái đồng trang lứa. Thay vì chơi búp bê, cô bé lại thích leo trèo, săn chuột cùng em gái. Cô thậm chí còn làm một bộ sưu tập côn trùng. Nhiều người viết tiểu sử về Earhart sau này nhận xét cô khi đó “không khác gì con trai cả!”.

Năm bảy tuổi, thích thú với trò chơi tàu siêu tốc ở công viên giải trí, Earhart đã thử tự làm một chiếc máng trượt ở nhà để... trượt từ trên mái nhà kho xuống đất. “Chuyến bay” đầu tiên ấy kết thúc với chiếc môi dập, chân tay thâm tím và

quần áo rách toạc. Nhưng Earhart vẫn thể hiện sự phấn khích với em gái: “Chị cảm thấy mình như vừa được bay vậy!”.


Ham chơi, nhưng Earhart cũng rất ham học. Ngoài thời gian “thám hiểm” những khu vực quanh nhà, cô bé vùi đầu vào thư viện gia đình. Earhart lần đầu đến trường khi đã lên lớp bảy, nhưng trước đó, bằng cách tự học, cô đã chuẩn bị đầy đủ kiến thức. Cô yêu khoa học đến nỗi từng từ chối một ngôi trường ở Chi-ca-gô (Chicago), vì lý do: “Phòng thí nghiệm hóa học ở đó chỉ như một cái bồn rửa bát”.

Đáng buồn, tuổi thơ của Earhart lại kết thúc trong u ám. Cha của cô nghiện rượu nặng, ngôi nhà bị đem đấu giá, và gia đình ly tán. Hình ảnh Earhart trong mắt bạn bè vào năm cuối trung học là “cô gái tóc nâu luôn đi một mình”.

“Chiếc máy bay nói chuyện với tôi”

Năm 1918, đại dịch cúm Tây Ban Nha lan tới nước láng giềng Ca-na-đa (Canada). Earhart nằm trong đội ngũ nhân viên y tế tới hỗ trợ. Nhờ đó, cô có cơ hội đến dự một cuộc triển lãm hàng không ở thành phố Tô-rôn-tô (Toronto). Chứng kiến màn bay biểu diễn của các phi công trở về từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Earhart chia sẻ: “Dường như lúc bay lên và xé gió lướt đi, chiếc máy bay nhỏ ở triển lãm nói với tôi điều gì đó”.

Phải đến năm 23 tuổi, Earhart mới lần đầu được trải nghiệm cảm giác của một chuyến bay thực thụ. Tiêu 10 USD cho một chuyến bay kéo dài 10 phút, Earhart nhanh chóng nhận ra ý nghĩa đích thực của đời mình. Trở về, cô làm mọi việc có thể để kiếm tiền học bay, dù có là công việc nặng nhọc vốn dành cho nam giới như tài xế xe tải.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Earhart đã kiếm đủ 1.000 USD (một khoản tiền rất lớn thời đó) học phí. Để thuận tiện hơn cho học tập, cô chấp nhận cắt bỏ mái tóc dài đầy nữ tính. Thành quả là tháng 10-1922, cô lái máy bay đạt tới độ cao 4.300 m, kỷ lục của các phi công nữ thời đó.

“Tôi bay từ Mỹ”

Năm 1927, phi công Mỹ Sác-lơ Lin-bớc (Charles Lindbergh) trở thành người đầu tiên một mình bay xuyên Đại Tây Dương. Một người phụ nữ tên A-my Gét (Amy Guest) tuyên bố bà rất hứng thú với ý tưởng trở thành người phụ nữ đầu tiên làm điều đó, dù chỉ là hành khách. Nhưng Amy lại... sợ nguy hiểm, vậy nên bà tuyên bố sẽ tài trợ cho bất cứ nữ phi công nào thực hiện ý tưởng này.

Đến tháng 4-1928, Earhart nhận cuộc gọi mời trở thành hành khách nữ đầu tiên cho chuyến bay xuyên Đại Tây Dương và lập tức đồng ý. Chuyến bay được thực hiện vào ngày 17-6, kéo dài 20 giờ 40 phút. Earhart tự thấy mình chỉ “như một bịch khoai tây trên máy bay”. Và vì thế, cô càng muốn tự mình bay vượt đại dương.

Trở về Mỹ, Earhart và các cộng sự được đích thân Tổng thống Can-vin Cu-lít-giơ (Calvin Coolidge) đón tiếp tại Nhà trắng. Người Mỹ tự hào vì họ có cả người đàn ông lẫn người phụ nữ đầu tiên bay xuyên Đại Tây Dương. Earhart được báo chí Mỹ đặt cho biệt danh “Nữ hoàng của bầu trời”.

Năm 1932, bốn năm kể từ ngày là hành khách bay xuyên Đại Tây Dương, Amelia Earhart lặp lại hành trình trong vai trò phi công chính. Chuyến bay kéo dài gần 15 giờ đồng hồ. Gió mạnh, băng đóng trong không trung và động cơ gặp trục trặc, nhưng cuối cùng Earhart vẫn hạ cánh an toàn. Đáp xuống vùng thôn dã ở Bắc Ai-len, một người nông dân chạy tới hỏi: “Cô bay từ đâu tới đây thế?”. Câu trả lời khiến bác nông dân sững sờ: “Tôi bay từ Mỹ!”.

Sinh nghề tử nghiệp

Sau lần bay xuyên Đại Tây Dương ấy, Earhart tiếp tục thực hiện một kỷ lục nữa khi trở thành người đầu tiên bay từ đảo Ha-oai (Hawaii) về Ca-li-pho-ni-a (California). Giai đoạn 1930-1935, cô thiết lập thêm bảy kỷ lục nữa về tốc độ và quãng đường bay với nhiều loại máy bay khác nhau. Sau tất cả, Earhart lên một kế hoạch táo bạo: Một chuyến bay nhiều chặng vòng quanh thế giới, bám theo đường xích đạo, dài tới 46.000 km.

35.000 km đầu tiên của hành trình diễn ra suôn sẻ. Earhart, với vai trò phi công chính, đã cùng các cộng sự bay xuyên nước Mỹ, tới Nam Mỹ, châu Phi, Ấn Độ để tới đảo Niu Ghi-nê (New Guinea). Nhưng, 11.000 km còn lại của hành trình lại là một thử thách hoàn toàn khác, khi Earhart sẽ phải bay xuyên Thái Bình Dương.

Ngày 2-7-1937, Amelia Earhart cùng cộng sự thực hiện chặng bay từ New Guinea tới đảo Hao-lan (Howland) trên Thái Bình Dương. Và đó cũng vĩnh viễn trở thành chặng bay cuối cùng của cô. Máy bay của Earhart mất liên lạc với trạm kiểm soát không lưu giữa hành trình.

Sau khi Earhart mất tích, giới chức Mỹ huy động cả hải quân vào cuộc tìm tung tích người phụ nữ vốn được xem như một trong những biểu tượng của đất nước. Tất cả đều không có kết quả. Ngay cả một mảnh vỡ máy bay cũng không được tìm thấy. Đến đầu năm 1939, Earhart cùng cộng sự được tuyên bố tử nạn.

Di sản

Không chỉ là một phi công xuất sắc, Earhart còn là một nhà văn ăn khách thời đó, với những tác phẩm viết về trải nghiệm đời mình. Một phần đời Earhart gắn liền với những hoạt động cổ vũ nam nữ bình quyền. Bà đã sử dụng mọi vị thế của mình để thúc đẩy điều đó.

Nói như cựu Ngoại trưởng Mỹ H.Clin-tơn (Hillary Clinton: “Earhart đã tạo nên một di sản đến ngày nay vẫn còn giá trị, cho các thanh niên mơ về thành công”. Hàng trăm cuốn sách viết về bà đã được xuất bản trong nhiều thập kỷ qua, trở thành động lực sống cho giới trẻ, đặc biệt là phụ nữ.

“Phụ nữ cũng giống như đàn ông, nên cố gắng làm những việc tưởng chừng như không thể. Dù có thất bại, thì thất bại của họ cũng trở thành động lực cho những người khác!” là phương châm sống của Earhart. Hay một quan niệm khác: “Không bao giờ làm những việc người khác từng làm, nếu vẫn còn những việc họ không thể làm!”.