Loại hình di sản đặc biệt
Di sản tư liệu là một loại hình di sản đặc biệt. Nó hiện hữu trên khía cạnh vật chất bởi các vật mang thông tin có chất liệu khác nhau (giấy, gỗ, đá, lá, vải, kim loại, vật lưu âm thanh, tiếng nói, mầu sắc, phim ảnh…) nhưng những nội dung thông tin chứa trên/trong đó lại là những yếu tố phi vật thể xác định giá trị của di sản.
Di sản Hán Nôm gồm hai loại, phân chia theo phương pháp ghi ký hiệu: văn khắc và văn viết. Văn viết lại bao gồm làm hai loại, được phân biệt theo chất liệu của vật mang thông tin: viết trên giấy dó đặc biệt và lụa, như sắc phong, văn bản hành chính, trướng… và viết trên giấy dó thường, như gia phả, văn cúng, hương ước, sách cổ... Văn khắc có thể được lưu trên gỗ, đá, đồng… Ngoài ra còn có khối tư liệu tiếng Pháp và các thứ tiếng khác lưu trên giấy hiện đại hoặc trên lá buông, như trường hợp các tập kinh Phật của người Khmer; ngoài ra còn có khối tư liệu hình ảnh, âm thanh, mầu sắc được lưu trên các nền tảng khác nhau…
Khối lượng đồ sộ các tư liệu mang nhiều tiềm năng giá trị đang tồn tại ở nhiều nơi. Một phần trong các cơ sở Nhà nước quản lý (thư viện, bảo tàng, trung tâm lưu trữ…). Phần lớn hơn được lưu giữ phân tán ở các cơ sở thờ tự, trong các họ tộc, trong các gia đình...
Qua giới thiệu của người quen, ông Đỗ Trung Kiên, người gốc làng Tương Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội), đến Phòng Bảo quản-Thư viện, Viện nghiên cứu Hán Nôm nhờ bồi lại cuốn gia phả của dòng họ được viết từ năm 1936. Cuốn gia phả khá dày, được viết bằng cả chữ Hán và chữ Pháp. Theo ông Kiên, cuốn gia phả được viết trên giấy tốt, gia đình lưu giữ cẩn thận trên bàn thờ, nhưng sau gần 100 năm, đã có nhiều trang bị giòn, mủn, có dấu hiệu hư hỏng.
Các chuyên gia xác định, nội dung cuốn gia phả này chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, lại có hình thức khá độc đáo. Họ đã dành gần hai tháng để gia cố, chỉnh trang lại từng chi tiết nhằm bảo vệ lâu dài nhất có thể cho cuốn gia phả-một dạng tư liệu văn bản quý, có giá trị nhiều mặt về lịch sử đang chờ được tiếp tục nghiên cứu khai thác.
Tuy nhiên, những trường hợp tư liệu may mắn được tu bổ kịp thời như vậy không nhiều. Thực tế cho thấy, địa phương nào cũng có tình trạng mất, hư hỏng các tài liệu Hán Nôm: sắc phong, hoành phi, câu đối, sách cổ, hương ước, mộc bản khắc kinh Phật… Điều đáng nói là, gần như tất cả các cơ sở lưu giữ tư liệu ngoài hệ thống công lập, cho đến nay, chưa được kiểm kê tư liệu và đều không đủ các điều kiện kỹ thuật tối thiểu để lưu trữ tư liệu lâu dài. Sự phong phú, đa dạng của di sản tư liệu còn đang được lưu giữ trong dân làm cho việc thống kê, phân loại di sản tư liệu để quản lý, lưu trữ theo hệ thống không phải là công việc dễ dàng mà cần đầu tư thiết bị, phương pháp và nguồn nhân lực được đào tạo tốt.
![]() |
| Một trong chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế, nơi lưu giữ những bản đúc nổi có nội dung đặc sắc về lịch sử, văn hóa - giáo dục, địa lý, phong thủy, y dược, nghệ thuật thư pháp. Ảnh: Cục Di sản văn hóa |
Chờ được luật hóa để được bảo vệ và phát huy giá trị
Công tác kiểm kê, quản lý các di sản tư liệu còn đang ở trong dân cần có sự đồng bộ từ chính sách, nghiệp vụ và con người, với sự hỗ trợ từ phía Nhà nước (khi cần thiết). Nhưng việc này chỉ có thể được triển khai khi có sự rõ ràng trong trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản tư liệu và đặc biệt là việc bảo vệ loại hình di sản này cần được luật hóa.
Năm 1992, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) khởi xướng Chương trình Ký ức Thế giới. Năm 2007, Việt Nam bắt đầu tham gia Chương trình này. Nhưng di sản tư liệu chỉ được biết và quan tâm nhiều hơn sau khi Mộc bản triều Nguyễn trở thành Di sản tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận, năm 2009. Đến nay, Việt Nam đã có 10 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO ghi danh (ba Di sản tư liệu Thế giới, bảy Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương).
Vậy nhưng, di sản tư liệu không được đề cập trong Luật Di sản văn hóa hiện hành (ban hành từ năm 2001, sửa đổi năm 2009 và hợp nhất năm 2013). Loại hình di sản này chỉ được nhắc đến trong quá trình xây dựng Luật Lưu trữ (năm 2011). Tiến sĩ Vũ Minh Hương, Phó Chủ tịch Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cho biết: "Trong quá trình xây dựng Luật Lưu trữ, vấn đề đưa di sản tư liệu vào dự thảo Luật cũng đã được đề cập, tuy nhiên do Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước chưa được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản tư liệu nên chỉ có khoản 2 Điều 26 liên quan đến thẩm quyền của cơ quan lưu trữ và tài liệu lưu trữ". Vì vậy, cho đến nay, di sản tư liệu vẫn chưa được khẳng định giá trị và được bảo vệ theo luật.
Nhằm khắc phục những bất cập trong thực tế bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã dành hẳn một chương đề cập di sản tư liệu. Theo kế hoạch tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, dự thảo sẽ được Quốc hội thảo luận, góp ý và trong tiến trình chờ được thông qua trong Kỳ họp thứ 8, diễn ra vào cuối năm nay. Cho dẫu còn một khoảng cách thời gian nhất định kể từ sau khi thông qua để Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) chính thức được đưa vào đời sống, nhưng tiến trình này cũng đang thắp sáng hy vọng di sản tư liệu sớm được xác định rõ vai trò cùng với việc được bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị.
