Chiếc khăn giữ hơn nửa thế kỷ

Với cụ bà Phạm Thị Cháu, 94 tuổi, người làng Hà Tây, xã Triệu An (Triệu Phong, Quảng Trị), chiếc khăn - kỷ vật của chồng là thứ quý giá nhất đối với cuộc đời bà.
0:00 / 0:00
0:00
Cụ bà Phạm Thị Cháu lưu giữ chiếc khăn của chồng hơn nửa thế kỷ với lời hẹn ước “sau tổng tuyển cử anh về...”.
Cụ bà Phạm Thị Cháu lưu giữ chiếc khăn của chồng hơn nửa thế kỷ với lời hẹn ước “sau tổng tuyển cử anh về...”.

Chiếc khăn của chồng và lời hẹn ước

Chúng tôi xuôi về Cửa Việt, Quảng Trị bây giờ đang là mùa khô. Cái nắng nóng hơn bốn mươi độ như thiêu đốt cây cỏ ở ven đường. Đi hết 14 cây số, gió biển mặn mòi đón chúng tôi và cái nắng vấn vít đất trời làng Hà Tây khiến cho một vùng đất bằng phẳng ven biển hiếm hoi những cây xanh vượt quá đầu người.

Đỗ xe gần bờ sông Hà Tây, chúng tôi men theo con đường nhỏ. Nắng cứ ran rát mà những bụi hoa giấy quanh nhà vẫn nở rất tươi xinh. Ngôi nhà cụ Phạm Thị Cháu lọt giữa khu vực cát trơ trọi, chỗ cái giếng đào cũng không có bóng cây. Cụ không cần biết chúng tôi từ đâu, đến làm gì nhưng vẫn lấy túi da mang ra khoe, ở trong đây có cái ni hay lắm, tui cất hơn 50 năm rồi. Nói xong cụ cười nhưng ánh mắt chứa chan niềm xúc động.

Câu chuyện của cụ Cháu là những mảnh ký ức chắp lại về quá khứ, chiến tranh, cả hòa bình. Ba mốc quan trọng trong đời cụ Cháu là khi gặp chồng - lúc hơn 20 tuổi, gặp ở bến sông và thời gian chồng cụ gửi chiếc khăn về cho cụ qua một đồng chí cũng là người con của làng Hà Tây.

Trong ngôi nhà tình nghĩa của chính quyền địa phương xây tặng gia đình chính sách, nền lát đá hoa do Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị trao tặng, có treo giấy chứng nhận công lao của chồng cụ Cháu: Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba, Bằng khen ủy ban Hành chính Khu ủy Vĩnh Linh, Huy chương Chiến thắng hạng hai, Huy chương Kháng chiến hạng nhất… Cụ Cháu kể: “Ông a tội dữ lắm, ngày đầu tiên gặp ở bến sông Hà Tây, ông lấy cái nón lành lặn đội lên đầu tui, lấy cái nón rách của tui đội lên đầu ông. Người chi mà thiệt là thương, không ưng không được…”.

70 năm trước, bên bến sông chỉ có hai người. Dường như dưới lớp khô cằn của cát, của đất trời Hà Tây là mạch nước trong lành, mát mẻ, đó cũng chính là tình yêu của đôi trai gái trên con sông này. “Làng tui ở gần sông, nhưng gặp ông cũng chỉ có một lần đó thôi, sau ngày cưới nhau ông đi kháng chiến cùng với trai tráng trong làng, chiến tranh ai cũng đi đánh giặc để giành lại đất nước”, cụ Cháu bộc bạch.

Hai chiếc khăn được cụ Cháu gói kỹ lưỡng trong bao kiếng. Chúng lại được bỏ vào một cái túi da trong chiếc tủ cạnh giường để lâu lâu cụ mang ra xem. Chiếc khăn thứ nhất được dệt bằng len, dài non 1 m, rộng gần 20 cm, có hoa văn kẻ rô, mầu sẫm. Chiếc thứ hai to hơn bàn tay, mầu trắng, bên trên có ghi chữ “Kỷ niệm”. Đó là kỷ vật đi cùng cụ Cháu hơn nửa thế kỷ, là thứ thân thuộc nhất của cụ về chồng. “Ông gửi khăn về cho người làng, nói sau tổng tuyển cử ông về, nói rứa…”, ánh mắt xa xăm của cụ Cháu lại dán vào chiếc khăn. Nó gần mà xa quá, mấy chục năm trời mà như hôm qua, tiếng ai hẹn ước còn văng vẳng, mà ngày đó cũng xa rồi.

Ước người về từ cuộc chiến

Trong câu chuyện khả dĩ vốn bình thường, dung dị, đầy cảm xúc hôm chúng tôi thăm cụ Phạm Thị Cháu, nhà văn Yên Mã Sơn cứ lật trở câu chuyện chiến tranh nhưng cụ Cháu hầu như không đề cập đến. Những giấy tờ liên quan đến chồng, cụ đã bỏ vào tủ rồi khóa lại, chiếc chìa khóa lâu ngày cũng không thể mở được tủ, âu đó cũng là cái “duyên”. Hỏi về kháng chiến, lặng im, về ngày giải phóng, lặng im, về ước mơ, cụ Cháu lại lật những chiếc khăn ra bàn “ông nói sau tổng tuyển cử ông về…”.

Chiến tranh thật sự đầy bão giông trong chiếc túi da chứa hai chiếc khăn ký ức. Lời hẹn thề còn đó, nét chữ của người thương còn đó, thậm chí hơi ấm hay mùi mồ hôi còn vấn vít mấy chục năm không rời khỏi trí nhớ của bà cụ. Thiếu tá Nguyễn Xuân Thế, Chính trị viên Phó Đồn Biên phòng Triệu Vân cho chúng tôi hay: Mệ cháu không có con cái, có mấy đứa cháu qua lại cơm nước cho mệ, các đồng chí trong đội địa bàn cũng thường xuyên lui tới chăm nom. Đó là nghĩa cử của con cháu, với chúng tôi là nghĩa cử đối với gia đình chính sách, có công với cách mạng.

Ngót nghét 78 năm ngày tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946, đó cũng là khoảng thời gian giao ước cho lời hẹn “sau tổng tuyển cử anh về”. Đi gần hết đời người, cụ Cháu vẫn đinh ninh đó là lời hẹn từ mới đây, vì chiếc khăn vừa mới mở ra thì mọi thứ còn nguyên vẹn. Tình yêu trong trái tim cụ Cháu và lời hẹn ước của chồng là sợi dây nối hôn nhân, nối những hạnh phúc và yêu thương. Ông hẹn thì ông sẽ về…, cụ Cháu nói với chúng tôi như thế, cụ ước mơ chồng mình quay về từ cuộc chiến, mặc dù lấp lánh trên tấm bằng Tổ quốc ghi công có tên liệt sĩ Lê Văn Kỳ, hy sinh ngày 28 tháng 5 năm 1972.