Theo Bộ Tài chính, tính đến ngày 31-12-2017, tổng số NTT-TCN, tiền phạt do ngành thuế quản lý là 73.145 tỷ đồng, số nợ thuế các loại do ngành hải quan quản lý là 5.474 tỷ đồng. Tổng số NTT-TCN, tiền phạt tính đến ngày 31-12-2017 là 78.619 tỷ đồng. Trong đó, tiền thuế còn nợ của người nộp thuế (NNT) đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan trách nhiệm hình sự, đã tự giải thể, phá sản, ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ kinh doanh, không có khả năng thu hồi lên tới 31.469 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43% tổng nợ. Với ngành hải quan, trong số 5.474 tỷ đồng tổng nợ, cũng có tới 3.878 tỷ đồng (chiếm 71%) là nợ không có khả năng thu. Như vậy NTT-TCN, tiền phạt tính đến ngày 31-12-2017 của các khoản nợ thuế không thể thu hồi được phát sinh do nguyên nhân khách quan là 35.347 tỷ đồng, bằng 44,9% tổng NTT-TCN, tiền phạt.
Thực hiện quy định của Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đã hướng dẫn xử lý xóa NTT-TCN cho NNT kịp thời. Tuy nhiên, nếu chiểu theo đúng các quy định, kết quả xử lý nợ thuế đạt rất thấp đối với những trường hợp nợ không có khả năng thu. Mặt khác, dù nhiều NNT đã tuân thủ pháp luật, nỗ lực nộp thuế, cơ quan thuế đã thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý thu nợ thuế theo quy định nhưng do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, họ vẫn còn NTT-TCN. Số nợ tiền chậm nộp này hạch toán vào thu nhập sau thuế thu nhập doanh nghiệp (DN) khiến DN chịu lỗ kéo dài, ăn vào vốn dẫn đến giải thể, phá sản, chấm dứt kinh doanh.
Theo Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng, thực chất đây là số tiền không thể thu được, do chủ yếu là nợ của các DN giải thể, phá sản. Đề nghị Chính phủ cho xóa nợ thuế với những khoản không có khả năng thu hồi.
Phó Vụ trưởng Quản lý nợ và Cưỡng chế nợ thuế Đoàn Xuân Toản cho biết, có những khoản nợ thuế lên đến 10 năm, nhưng không thể xóa được do không đáp ứng được điều kiện “đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế”, theo quy định Luật Quản lý thuế. Những vướng mắc như vậy đã dẫn đến số NTT-TCN, tiền phạt tồn đọng của nhiều năm đến nay là khá lớn, lên đến khoảng 73.000 tỷ đồng. Xuất phát từ tình hình thực tế, việc xóa nợ thuế cho các trường hợp nêu trên là rất cần thiết. Nếu nghị quyết này được QH thông qua sẽ góp phần làm minh bạch số tiền nợ thuế, minh bạch nguồn thu, phản ánh chính xác số tiền nợ thuế, giúp cho công tác quản lý thuế của cơ quan thuế thuận lợi hơn.
Sau khi cân nhắc tính toán kỹ, loại trừ các khoản nợ thuế do NNT chây ỳ cố tình không nộp, còn lại là số nợ không thể thu. Tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tài chính đề nghị QH cho xử lý xóa nợ, khoanh các khoản nợ không còn đối tượng để thu, không có khả năng thu. Tổng số tiền nợ thuế bao gồm cả tiền phạt chậm nộp được Bộ Tài chính đề nghị cho xóa ước khoảng 26.500 tỷ đồng.
Cụ thể, Bộ đề nghị: Khoanh nợ đối với NNT nợ tiền thuế đã chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh quá một năm, cơ quan đăng ký kinh doanh đã thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKKD); xóa nợ tiền chậm nộp do nguyên nhân khách quan bất khả kháng. Xóa nợ tiền chậm nộp thuế của các khoản nợ thuế phát sinh trước ngày 1-1-2018 của NNT gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp khó khăn bất khả kháng; xóa NTT-TCN, tiền phạt đối với những trường hợp không còn khả năng thu do NNT thực tế đã giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực tế không còn hoạt động sản xuất, kinh doanh trước ngày 1-1-2017 mà không còn khả năng nộp ngân sách và đã được cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi GCNĐKKD…
Bày tỏ quan điểm ủng hộ đề xuất này của Bộ Tài chính nhưng đề nghị, các tiêu chí, nguyên tắc xóa, khoanh NTT-TCN, tiền phạt phải rõ ràng, chặt chẽ để bảo đảm công bằng, minh bạch, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của QH Đinh Văn Nhã cho biết, trong số 26.500 tỷ đồng nợ thuế của DN, phần lớn khoản nợ tồn đọng trong thời gian rất dài, không thể đòi được, và có lý do khách quan, nên có để kéo dài nữa thì cũng không thể thu được, cho nên nên xóa những khoản nợ thuế này. Tuy nhiên “vấn đề là việc thực hiện phải minh bạch”. Xóa được những khoản nợ thuế này sẽ tạo điều kiện cho DN đang hoạt động mà không thể nộp trả nợ thuế do điều kiện khách quan, làm trong sạch được bảng tổng kết tài sản; tạo điều kiện cho DN tiếp tục kinh doanh, tiếp cận được vốn vay, đối tác… Việc xóa nợ thuế phải bảo đảm tính minh bạch, công bằng, trung thực, tránh sự lạm dụng, tránh để xảy ra hiện tượng chung chia giữa NNT với người quản lý thuế, không để lợi ích nhóm lợi dụng chính sách. Cần tránh được tiền lệ, “lách luật” để xoá nợ thuế. Để làm như vậy, cần đưa ra một số nguyên tắc để rà soát lại đối tượng nộp thuế và các khoản nợ thật chặt chẽ, giao và quy trách nhiệm trực tiếp cho người thực hiện, bảo đảm việc này được xử lý công bằng, khách quan và công tâm. Không thể để lợi dụng gây thất thoát của Nhà nước.