Tìm vợ, con của đồng đội

Phải đến 15 giờ ngày 30/4/1975, đơn vị chúng tôi mới vào tới trung tâm Sài Gòn. Lúc này tiểu đội tôi chỉ còn bảy tay súng. Như vậy, trên đường tiến vào Sài Gòn, tiểu đội tôi đã hy sinh bốn đồng chí và một bị thương nặng phải đưa về tuyến sau điều trị.
Ảnh: HOÀNG TẠO
Ảnh: HOÀNG TẠO

Trong bốn người hy sinh, có Nhân là bạn thân của tôi. Nhân là người dân tộc Tày ở Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Nhân cùng nhập ngũ với tôi một ngày và cùng được biên chế về Tiểu đội 6, Trung đội 2, Tiểu đoàn 3B, Trung đoàn 246, quân khu Việt Bắc. Đơn vị chúng tôi đóng quân tại xóm Bầu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Trong trận đánh đầu tháng 4/1975, phía bắc huyện Củ Chi, một mảnh đạn pháo đã làm đứt động mạch chủ ở cổ bên trái của Nhân, máu chảy ra ướt đẫm ngực áo. Tôi đã nhanh chóng băng ba cuộn băng, y tá đại đội đã tiêm một mũi cầm máu nhưng máu vẫn xối ra. Biết mình khó qua khỏi, Nhân lấy tay vít đầu tôi xuống, rồi ghé vào tai tôi thều thào: “Nhớ về tìm mẹ con Thoa…”. Tôi nói với Nhân trong nước mắt nghẹn ngào: “Không sao đâu”. Lát sau, Nhân ngừng thở trên tay tôi.

Sau giải phóng, mỗi người lính chúng tôi có bao nhiêu việc phải làm. Vì thế, mãi đến tháng 7/1976 (tức là hơn một năm sau) tôi mới trở lại xóm Bầu thực hiện lời hứa với Nhân tìm Thoa.

Câu chuyện là thế này: Tháng 3/1972, đơn vị chúng tôi đóng quân ở xóm Bầu huấn luyện để sau đó tăng cường cho chiến trường miền nam. Cách xóm Bầu chừng 600m là nơi ở của Hạt giao thông huyện Đại Từ. Hạt giao thông khi đó có khoảng hơn chục người phần lớn là nữ, trong có cô Thoa, một cô gái chừng 19, 20 tuổi. Có thể nói Thoa là một cô gái khá xinh. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị gọi vui là “hoa hậu” của núi rừng. Hằng tháng, chi đoàn thanh niên của đại đội chúng tôi thường tổ chức giao lưu văn nghệ với chi đoàn thanh niên địa phương, trong đó có các cô ở Hạt giao thông.

Là một chiến sĩ có dáng vóc như một vận động viên thể thao, nước da trắng, mái tóc xoăn, đặc biệt là có giọng hát rất hay nên Nhân đã lọt vào mắt xanh của bao cô gái nơi thôn dã, trong đó có Thoa. Theo thời gian, Thoa và Nhân thật sự có tình cảm với nhau. Chẳng thế mà mỗi lần mấy anh em trong tiểu đội được đơn vị cử lên Đại Từ lấy gạo, để anh em đỡ phải đeo nặng, Nhân đã ra Hạt giao thông nhờ Thoa mượn được xe cải tiến, một phương tiện làm việc không thể thiếu hằng ngày đối với Hạt giao thông, để đem đi chở gạo. Nhờ mối quan hệ đó mà tiểu đội tôi luôn được Thoa gửi quà đến, nào là chè, thuốc lá, phong bì thư, rồi đến bưởi, cam, hồng… mùa nào thức đó. Thoa trở thành “người nhà” của tiểu đội chúng tôi.

Chỉ còn vài ngày nữa là đơn vị chúng tôi sẽ rời xóm Bầu vào chiến trường. Để tuyệt đối bí mật, đơn vị thực hiện cấm trại. Ấy vậy, không hiểu bằng cách nào mà Nhân vẫn đến được với Thoa.

Đêm ấy, mãi đến chín giờ hơn cậu ta mới về. Đêm đã về khuya, chung quanh mọi người đã ngủ ngon lành nhưng Nhân vẫn trằn trọc, thi thoảng lại thở dài thườn thượt. Tôi hỏi: “Có chuyện gì không?”, Nhân trả lời giật cục: “Không!”.

Đơn vị hành quân bằng ô-tô suốt ngày đêm. Đến ngày thứ ba thì vào đến Quảng Bình. Đại đội chúng tôi trú quân trong một khu rừng ven bờ sông Son. Thấy Nhân làm việc gì cũng thiếu tập trung, sợ bạn ấy có tư tưởng tiêu cực, nên với tư cách là tiểu đội trưởng tôi hỏi thẳng: “Nhân có chuyện gì phải không, nói cho mình nghe nào!”.

Suy nghĩ một lát, nhìn chung quanh, Nhân ghé sát tai tôi nói nhỏ: “Tôi chỉ nói riêng với ông điều này: Thoa có chửa với tôi được bốn tháng rồi! Tôi đang lo cô ấy sẽ bị kỷ luật, hơn nữa khi sinh nở sẽ “vượt cạn” một mình. Tôi lo cho cô ấy quá ông ạ!”.

- Trời đất, sao ông liều thế! Việc “tày đình” như thế này chỉ huy đại đội mà biết thì ông sẽ bị kỷ luật nặng đấy!

Tuy vậy, với người ra trận, không ai nỡ làm cho họ phải phân tâm. Vì thế, câu chuyện của Nhân chỉ có vài anh em trong tiểu đội biết, cho đến khi cậu ấy hy sinh.

*

Trở lại xóm Bầu lần này, chủ yếu tôi tìm Thoa. Hạt giao thông bây giờ không còn ở xóm Bầu mà chuyển về huyện lỵ. Qua câu chuyện của những cô bạn làm ở Hạt giao thông, chúng tôi được biết, Thoa bị kỷ luật vì tội chửa hoang. Không chịu nổi miệng lưỡi của người đời, cô bỏ về quê sống với bố mẹ tại một xã thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Theo chỉ dẫn của anh chị em ở Hạt giao thông huyện Đại Từ, chúng tôi về quê của Thoa. Gặp lại sau bốn năm xa cách, lại là những người thân của Nhân nên Thoa rất cảm động. Thằng bé hơn bốn tuổi khoanh tay trước ngực bẽn lẽn chào chúng tôi. Thằng bé có nước da trắng, trán hơi dô, đặc biệt là mái tóc xoăn trông giống Nhân như đúc. Vừa rót nước vào chén mời chúng tôi, Thoa tâm sự:

Đã hai năm rồi đất nước thống nhất, các anh đã về cả, vậy mà không thấy anh Nhân đâu. Chắc anh bận việc gì hay quên mẹ con em rồi cũng nên.

Câu nói của Thoa khiến tôi xót xa vô cùng. Thì ra, Thoa vẫn chưa biết Nhân đã hy sinh ngoài mặt trận. Đến nước này, buộc tôi phải lựa lời nói cho Thoa nghe về sự hy sinh của Nhân. Thoa chăm chú nhìn tôi rồi mặt cô tái nhợt và ngã vật ra trên nền nhà. Được những người thân động viên, an ủi, Thoa dần tỉnh lại. Cô kéo đứa con trai vào lòng sụt sùi khóc. Một lát sau, khi tĩnh tâm lại Thoa mới nói: “Đã đôi lần em và cháu Nghĩa (tên cậu bé) định hỏi đường về quê anh Nhân nhưng ngặt một nỗi không biết quê anh ở xã nào của huyện Hàm Yên; thứ nữa tự nhiên mình là người lạ đến nhận làm con cháu thì không ổn, em đành chờ để anh ấy trở về…”.

Chúng tôi tìm mọi cách liên hệ với tỉnh đội Tuyên Quang và báo với họ về trường hợp này. Một tháng sau, tỉnh đội Tuyên Quang đã cho xe đưa chúng tôi về Hải Dương rồi đón mẹ con cô Thoa lên nhà Nhân.

Chiếc xe bò trên con đường nhỏ hẹp, qua hai quả đồi mới đến được nhà Nhân. Bác chủ nhà, bố Nhân còn khỏe. Chỉ mới nhìn đã biết ông là bố của Nhân vì Nhân rất giống cha. Qua câu chuyện tôi được biết, Hà Văn Nhân đã được công nhận là liệt sĩ cuối năm 1975. Biết chúng tôi là bạn chiến đấu của con trai mình nên ông ấy hỏi rất kỹ về trường hợp hy sinh của Nhân. Nói đoạn, tôi đưa tay về phía góc nhà nơi mẹ con Thoa đang ngồi, rồi nói với mọi người: “Thưa bác và cả nhà, đây là chị Thoa - vợ chưa cưới của Nhân và cháu bé đây là con của Nhân - cháu Nghĩa!”.

Sự việc bất ngờ khiến ông ngơ ngác đến mấy giây. Ông nhìn về phía mẹ con Thoa: “Vậy sao! Là vợ con thằng Nhân à! Cháu lại đây với ông nào!”.

Hình như có một mối liên hệ máu thịt nào đó giữa ông và thằng bé, nó chạy lại xà vào lòng ông. Ông ôm chặt thằng bé vào lòng: “Cháu ơi! Thế là nhà ta vẫn có người nối dõi tông đường rồi!”. Giọng ông bệu bạo trong nước mắt.

Được biết gia đình chỉ có một mình Nhân là con trai, nên giờ đây, Nghĩa, thằng cháu đích tôn trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng đối với gia đình, dòng tộc của ông!

Rồi ông quay về phía Thoa: Con à! Lâu nay mẹ con con chắc là vất vả lắm phải không? Như vậy con phải chịu thiệt thòi nhiều quá! Bố mẹ đây cảm ơn con và gia đình con. Ngừng một lát ông nói: Ít ngày nữa chọn ngày lành tháng tốt, bố mẹ sẽ sắm lễ về Hải Dương thưa chuyện với ông bà dưới đó, đồng thời làm các thủ tục pháp lý, để xin cho con về làm dâu nhà này con ạ!

Chỉ chờ có thế, Thoa khóc nấc lên. Cô khóc như chưa bao giờ được khóc. Bao nhiêu tủi hờn, cơ cực, cay đắng bấy lâu nay dồn nén giờ được giải tỏa, chia sẻ. Cô nói trong nước mắt: “Mẹ con con cảm ơn bố mẹ ạ!”.

Đồng chí cán bộ chính sách của tỉnh đội Tuyên Quang đi cùng hứa với mọi người khi về sẽ làm mọi thủ tục để đề nghị Nhà nước xem xét công nhận Đào Thị Thoa là vợ liệt sĩ và cháu Hà Văn Nghĩa là con liệt sĩ.

Ghi theo lời kể của Hoàng Thế Long và Nguyễn Hiền Lương (bạn chiến đấu của liệt sĩ Hà Văn Nhân)

Có thể bạn quan tâm