Họa sĩ Đoàn Văn Nguyên:

Thành hay bại đều tùy thuộc bản lĩnh của nghệ sĩ

Họa sĩ Đoàn Văn Nguyên được giới mỹ thuật cả nước biết đến như một người chuyên chú với nghệ thuật hội họa sơn mài theo những nguyên tắc nghiêm cẩn của kỹ thuật sơn mài truyền thống. Với ông, hội họa sơn mài Việt Nam, một khi tuân thủ nghiêm chỉnh những nguyên tắc của kỹ thuật truyền thống kết hợp cùng nghệ thuật tạo hình hiện đại, thì sẽ luôn giữ được sự độc đáo, duy nhất trên thế giới.

Thành hay bại đều tùy thuộc bản lĩnh của nghệ sĩ

Hội họa sơn mài Việt Nam xứng đáng là di sản nhân loại

- Ông có quan tâm đến thông tin gần đây là phía Hàn Quốc có kế hoạch mời gọi Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc cùng tham gia xây dựng hồ sơ đa quốc gia đệ trình lên UNESCO công nhận nghệ thuật sơn mài là di sản văn hóa thế giới?

- Tôi có quan tâm chứ. Cả ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều rất phát triển sơn mài mỹ nghệ, đặc biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản. Việc lập hồ sơ này có lẽ xuất phát từ mong muốn vinh danh sản phẩm này của họ và kéo theo đó là các chiến lược kinh doanh sản phẩm kết hợp phát triển du lịch nếu sơn mài được công nhận di sản thế giới.

- Suy nghĩ của ông về lời đề nghị này?

- Sơn mài mỹ nghệ của chúng ta gần như chết rồi. Cả làng nghề sơn mài truyền thống Hạ Thái ngay gần Hà Nội giờ chỉ còn lóp ngóp một vài nhà làm. Những vùng trồng cây sơn ta không chỉ bị thu hẹp lại mà hầu như những lứa sơn tốt đều luôn bị thương lái Trung Quốc đặt hàng trước và lấy hết. Có dễ đến 10 năm nay là như vậy rồi. Chúng ta chỉ còn khác họ là có hội họa sơn mài. Rất nhiều giáo sư người Nhật Bản, Trung Quốc đã tìm đến tôi để học hỏi về nghệ thuật hội họa sơn mài. Họ thừa nhận là nước họ chưa thể hoặc thậm chí là không thể làm được như cách chúng ta đã và đang sáng tạo với nghệ thuật tạo hình hiện đại cùng kỹ thuật sơn mài độc đáo của cha ông.

Chính vì thế mà tôi nghĩ, nếu không biết cách tôn vinh giá trị riêng có của mình lên trong cái hồ sơ chung này, thì chúng ta chỉ luôn như ké một chân vào với họ mà thôi. Trong khi tôi tin tưởng là với hội họa sơn mài Việt Nam hiện đại, kể từ khi có trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1925, cũng gần 100 năm đến nơi rồi, sẽ sớm đến lúc xứng đáng được nhìn nhận như một di sản văn hóa độc đáo và giá trị của nhân loại. Những danh họa của chúng ta như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm... nhiều người chẳng đã cống hiến hết đời mình cho hội họa sơn mài đấy ư? Hoặc không, họ cũng đều nhận thấy giá trị riêng biệt và hoàn toàn Việt Nam của hội họa sơn mài. Một Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của Nguyễn Sáng, Vườn xuân Trung Nam Bắc của Nguyễn Gia Trí, Gióng của Nguyễn Tư Nghiêm.. đã nói cho thế giới này rất nhiều điều về giá trị của hội họa sơn mài hiện đại Việt Nam.

- Ông vừa nói có các giáo sư nước ngoài tìm đến ông để học hỏi về nghệ thuật hội họa sơn mài?

- Từ năm 2010 cơ. Người Trung Quốc có chiến lược để 50 năm sau họ cũng có hội họa sơn mài vượt cả Việt Nam đấy. Họ đã và đang sưu tập tranh của ta rất nhiều để nghiên cứu nữa. Nhưng tôi chỉ nói về nghệ thuật chứ tôi không cho họ biết về kỹ thuật làm sơn mài của tôi được. Làm thế nào để một bức tranh sơn mài với sơn, son, vàng, bạc, vỏ trứng, một số mầu pha từ bột mầu lại có thể khiến người đối diện cảm thấy bức tranh như đang tự phát sáng, sâu thăm thẳm, nhiều lớp lang về mầu, vô cùng phong phú sắc độ, càng nhìn càng như bị hút mắt vào... Còn lâu tôi mới tiết lộ kỹ thuật nhé! (cười).

Lớp học trong địa đạo, sơn mài, 120x160cm. Tác phẩm thuộc chương trình sáng tác tác phẩm đỉnh cao do Nhà nước đặt hàng. Ảnh do nghệ sĩ cung cấp.

Nghệ thuật thường mâu thuẫn với cuộc sống

- Ông có nhiều tác phẩm sơn mài được giải thưởng cao của Hội Mỹ thuật, triển lãm mỹ thuật toàn quốc từ hàng chục năm trước. Tranh của ông thường khổ lớn, trong khi để tuân thủ mọi yêu cầu của kỹ thuật sơn mài truyền thống thì thời gian và chi phí cho một bức tranh như vậy cũng thường rất lớn. Ông giữ lại hầu hết tranh, không bán. Điều này có mâu thuẫn với thu nhập của một nhà giáo như ông?

- Nghệ thuật thường mâu thuẫn với cuộc sống là ở chỗ đó, nhất là với người vẽ sơn mài như tôi. Nhà nghèo nhưng tranh toàn vàng với bạc... Gần đây, tôi còn có lúc nổi hứng nói với học trò là bây giờ, thầy vẽ tranh toàn bằng vàng (cười).

Những năm tháng kinh tế chung của cả nước khó khăn, tôi vẽ tranh lụa, tranh giấy vì dòng chất liệu này có thể bán dễ dàng hơn, do giá cả phải chăng. Tôi luôn dành ra một phần tiền mua sắm nguyên liệu cho tranh sơn mài. Phương châm là lấy nghệ thuật nuôi nghệ thuật.

- Có những gì ở sơn mài khiến ông đam mê đến vậy?

- Những bức vẽ của tôi từ hàng chục năm trước đến giờ sắc mầu vẫn trong như ngọc. Sơn mài giúp tôi hoàn toàn thỏa mãn được tình cảm của mình trong quá trình sáng tác mà không cần viện thêm bất kỳ một phụ liệu nào khác để tạo chất, tạo bề mặt khác lạ. Thêm vào đó, sơn mài cần thời gian, có khi hàng năm cho một bức tranh nên người nghệ sĩ có muốn vội vàng cũng chẳng được trong tạo hình của mình. Anh ta phải rất kiên trì và chắc chắn với từng bước đi trong nghệ thuật.

- Sau hàng chục năm giảng dạy về nghệ thuật hội họa sơn mài trong trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, ông nhận thấy số lượng học trò tha thiết theo con đường như ông đang đi còn nhiều không?

- Đáng buồn phải nói là số trò hư nhiều hơn số trò yêu nghề thực sự. Hư đến độ còn gian dối nói tranh sơn mài sản xuất hàng loạt vì làm bằng sơn hóa học của Nhật Bản là tranh sơn mài theo kỹ thuật truyền thống Việt Nam. Số người này rất nhiều và vô hình trung làm tha hóa nghệ thuật hội họa sơn mài rất đặc sắc của chính dân tộc mình. Không phải ngẫu nhiên mà có những chuyện như người nước ngoài mua tranh sơn mài rồi chẳng mấy chốc quay ra “bắt đền” họa sĩ vì tranh bị cong, vênh, nứt... Như tôi đã nói, nếu tuân thủ nghiêm ngặt kỹ thuật sơn mài truyền thống thì độ bền của tranh là hàng trăm năm, kể cả có nhúng xuống nước biển cũng không vấn đề gì.

Đồng tiền làm cho nghệ sĩ tha hóa nhiều, nhanh nhưng tôi không tin là nó có thể làm tha hóa tất cả. Có những người vẽ để bán nay muốn quay lại làm nghệ thuật thì không được nữa, muốn quay lại làm sơn mài thật, cũng muộn rồi. Đấy là cái giá họ phải trả, đau lắm đấy vì dù sao cũng còn chữ “sĩ” bên cạnh chữ “họa” mà.

- Nhưng như ông vừa nói, hiện giờ nguyên liệu chính như sơn ta cũng đã không còn loại tốt, họa sĩ muốn làm tốt với sơn mài cũng đâu có thuận lợi về mặt nguyên liệu nữa?

- Thực tế là thế nhưng nếu anh có bản lĩnh với nghề, anh phải tự biết cách khắc phục. Có học trò của tôi đã lần mò lên tận làng trồng sơn, đặt trước sơn tốt, lấy số lượng lớn và có thể ung dung vẽ cả dăm bảy năm. Thành, bại hay không tùy bản lĩnh nghệ sĩ.

- Chân thành cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Sau một thời gian làm giảng viên hệ trung cấp - Đại học Mỹ thuật Hà Nội, họa sĩ Đoàn Văn Nguyên nhập ngũ vào chiến trường B. Sau năm 1975, ông tiếp tục học lên hệ đại học và được giữ lại trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) làm giảng viên chuyên ngành sơn mài. Ông từng là Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật chuyên ngành Hội họa - Hội MTVN (2004 - 2009). Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước với bộ các tác phẩm sơn mài Bác làm thơ, 100x130cm (1990); Những cô gái Tây Nguyên, 100x130cm (1999); Trên cao nguyên, 100 x 85 cm (1995); Đi học chữ Bác Hồ, 100 x 130 cm (1996); Chọi trâu, 180 x 120 cm (2000). Riêng bức tranh Chọi trâu đã được chọn phóng lớn tới kích thước 2,8 m x 7 m và trưng bày tại Trung tâm hội nghị quốc gia như một món quà chào mừng hội nghị APEC do Việt Nam đăng cai tổ chức năm 2006.

Có thể bạn quan tâm