Ứng dụng khoa học công nghệ trong nghiên cứu chọn tạo giống lúa

Trong giai đoạn từ 2012 đến nay, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã và đang thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa (25 đề tài/dự án các cấp về chọn tạo giống), trong đó tập trung cho giống lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, giống lúa chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường như hạn, mặn, ngập… và chống chịu với sâu bệnh .
Cán bộ nông nghiệp phố biến kiến thức, kỹ thuật canh tác tiên tiên cho nông dân.
Cán bộ nông nghiệp phố biến kiến thức, kỹ thuật canh tác tiên tiên cho nông dân.

Số giống lúa của Viện được công nhận cho phép đưa vào sản xuất trong giai đoạn này là 14 giống lúa mới (công nhận chính thức), 31 giống lúa được công nhận sản xuất thử; 12 giống lúa cho phép lưu hành sản xuất cuối năm 2021; 2 quy trình được công nhận tiến bộ kỹ thuật mới; 45 giống lúa được cấp văn bằng bảo hộ.

Bước tiến vượt bậc trong phát triển giống lúa mới

Những năm gần đây biến đổi khí hậu đã và đang diễn biến ngày càng phức tạp đặc biệt là tại đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, ứng phó hiệu quả và phát triển bền vững nền nông nghiệp là yêu cầu lớn, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp, kỹ thuật cụ thể giúp sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn cho hiện tại và tương lai, trong đó nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống mới được xem là một trong các khâu quan trọng.

Các giống lúa của Viện đáp ứng điều kiện canh tác của từng vùng sinh thái và nhu cầu thị trường, được phân nhóm dựa vào đặc tính nổi bật của giống như: Nhóm lúa cao sản (AS996, OM2517, OM2514, OM3536, OM4900, OM6073, OM6377, OMCS2009, OM4688, OM5625, OM4495, OM4488, OM7348, OM366O, M368, OM8959, OM11735, OM10424, OM8928, OM10418, OM5976, OM3673; OM448, OM34, OM22); Nhóm lúa chất lượng cao (OM2514, OM3536, OM5930, OM4900, OM6073, OM6161, OM6600, OM5953, OM4088, OM4218, OM8923, OM4101, OM6072, OM2496-15, OM7347, OM6162, OM5451, OM6976, OM8017, OM6932, OM6916, OM6904, OM3995, OM6893, OM10434, OM9605, OM9915, OM121, OM7348, OM10373, OM5976,OM9921, OM18, OM232, OM8929, OM35, OM375, OM16, OM429, OM468, OM442 …; Nhóm giống lúa thơm/ đặc sản/chất lượng cao cấp (OM4900, OM6162, OM8, OM48,…); Nhóm giống lúa nếp, lúa màu dinh dưỡng (Nếp OM366, OM368, OM406, OM441; Giống lúa Japonica: OM46,…). Trong đó có các giống lúa ngắn ngày mà vẫn bảo đảm năng suất, chất lượng và tính chống chịu sâu bệnh tốt đã giúp nông dân trong vùng có điều kiện thâm canh, tăng vụ, né mặn, tránh lũ.

Đến nay, diện tích gieo trồng các giống do Viện chọn tạo chiếm 70- 80% tại đồng bằng sông Cửu Long. Điều này khẳng định vị thế của giống lúa OM do Viện chọn tạo đối với sản xuất. Giống lúa OM của Viện không chỉ được trồng tốt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà lan tỏa trong cả nước, như các giống OM5451, OM6976, OM4900, OM6162, OM18, OM380, OM429…

Cùng với việc chọn tạo và chuyển giao các giống lúa mới vào sản xuất, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã nghiên cứu và chuyển giao có hiệu quả các quy trình công nghệ và các giải pháp kỹ thuật canh tác theo hướng bền vững, tăng năng suất, tăng chất lượng và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân trên nhiều vùng sinh thái khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long.

Những năm qua, Việt Nam phát triển nhiều giống lúa mới cho năng suất chất lượng cao

Những năm qua, Việt Nam phát triển nhiều giống lúa mới cho năng suất chất lượng cao

Đưa công nghệ vào nghiên cứu

Thời gian qua, Viện Lúa đã triển khai nhiều nội dung nghiên cứu theo hướng ứng dụng công nghệ sinh học vào công tác chọn tạo giống mới, các chiến lược chọn tạo, cải tiến giống cây trồng của Viện đều dựa trên việc tạo và khai thác biến dị di truyền, trong đó phổ biến nhất là phương pháp lai tạo.

Hầu hết trong các nghiên cứu chọn tạo giống mới, Viện Lúa đều sử dụng song song giữa lai tạo truyền thống và các thành tựu của công nghệ hiện đại (kỹ thuật sinh học phân tử, kỹ thuật di truyền, kỹ thuật nuôi cấy mô, kỹ thuật nuôi cấy túi phấn, đột biến phóng xạ, nghiên cứu ứng dụng chỉ thị sinh học phân tử, lập bản đồ gene, giải trình tự, chuyển nạp gene và gần đây là công nghệ chỉnh sửa gene, …) nhằm mục tiêu chọn tạo thành công các giống lúa mới có khả năng chống chịu sâu bệnh, tăng khả năng chống chịu ngập, mặn, hạn kéo dài và tăng cường thêm đặc tính cần thiết khác đáp ứng thị trường xuất khẩu như: phẩm chất gạo tốt, hàm lượng amylose thấp, có mùi thơm, hàm lượng vi chất dinh dưỡng cao, tỷ lệ gạo nguyên cao …

Phương pháp lai tạo truyền thống kết hợp ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại trong lĩnh vực chọn tạo giống mới đáp ứng yêu cầu sản xuất thực tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long được Viện xem như là mũi nhọn trong việc hỗ trợ, cải tiến phương pháp, rút ngắn thời gian chọn tạo các giống lúa theo mục tiêu một cách chính xác về mặt di truyền.

Ngoài việc nghiên cứu giống lúa chống chịu tốt với hạn mặn thì yêu cầu về nâng cao chất lượng gạo của giống lúa cũng được chú trọng nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Trên cơ sở nhu cầu cấp thiết đó từ thực tế sản xuất, Viện Lúa cũng đã ứng dụng thành công chỉ thị phân tử chọn tạo ra các giống lúa thơm chống chịu mặn, có thời gian sinh trưởng ngắn và thích nghi được nhiều vùng canh tác tại đồng bằng sông Cửu Long.

Các giống chống chịu mặn tốt và chất lượng cao như OM9921 và OM232 đã được công nhận quốc gia (giống lúa mới), được nhượng quyền khai thác và đang được sản xuất đại trà trên đồng ruộng.

Các giống triển vọng mới có tính chống chịu mặn cao do tích hợp QTL Saltol đã biết và gene chống chịu mặn mới cũng vừa mới được phát triển nhằm tăng cường thêm tính chống chịu mặn của các giống lúa như OM3, OM24, OM44 và OM89.

Ngoài thành tựu chọn tạo được giống lúa (gene mặn mới) có tính chống chịu cao hơn, các nhà khoa học tại Viện Lúa còn lập được bản đồ gene chống chịu mặn mới, hoàn thiện quy trình chọn giống lúa chịu mặn trên cơ sở chỉ thị phân tử nhằm bổ sung thêm nguồn gene chống chịu mặn giúp quá trình nghiên cứu chọn tạo giống lúa ở giai đoạn tiếp theo.

Để nâng cao hiệu quả chọn tạo giống trong tương lai, thời gian tới Viện Lúa tiếp tục phát triển chiến lược lai tạo bằng cách kết hợp phương pháp lai tạo cổ truyền và ứng dụng kỹ thuật công nghệ sinh học để tạo các giống lúa mới có năng suất cao, phẩm chất tốt chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường và sâu bệnh hại chính, nâng cao chất lượng nhằm có giá thành xuất khẩu cao.

Một số giống lúa mùa có phẩm chất tốt như nàng hương, nhỏ thơm, nàng nhen… cần được đưa vào chương trình phục tráng, định hướng phát triển ở một số vùng ven biển và tạo thương hiệu gạo Việt Nam.

Song song với việc chọn tạo dòng/giống lúa thuần, chọn tạo giống lúa nếp, giống lúa Japonica, kỹ thuật tạo dòng ưu thế lai F1 cũng là một trong những định hướng trong chiến lược chọn tạo giống cây trồng của Viện.

Có thể bạn quan tâm

Toàn cảnh hội nghị FIA 2025

MXV kết nối thị trường hàng hóa phái sinh Việt Nam với chuẩn mực toàn cầu tại FIA Asia 2025

Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) là đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự FIA Asia Derivatives Conference 2025, diễn ra từ ngày 2 đến 4/12 tại Singapore. Tại hội nghị, MXV tham dự các phiên thảo luận để ghi nhận các chuẩn mực quốc tế, cập nhật những xu hướng mới về công nghệ, quản lý rủi ro và sản phẩm phái sinh.

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

[Ảnh] “Bộ não” điều hành sân bay Long Thành trước thời khắc đón chuyến bay đầu tiên

Cùng với các hạng mục đang được tăng tốc đẩy nhanh tiến độ để kịp khánh thành, đón chuyến bay đầu tiên vào ngày 19/12 tới, thì Đài Kiểm soát không lưu sân bay Long Thành được ví như “bộ não” điều hành sân bay lớn nhất nước ta này đang bước vào thời điểm cuối cùng lắp đặt các thiết bị để cơ bản hoàn thành trước ngày 15/12.

Quang cảnh hội thảo.

Hành trình “Tri thức trồng và chế biến cà-phê” trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Hội thảo khoa học - diễn đàn quốc tế năm 2025 về “Chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu - Phát triển toàn cầu, địa phương và bền vững” không chỉ thảo luận về chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà-phê toàn cầu, mà còn hướng đến phát triển bền vững gắn với bản sắc văn hóa và tri thức bản địa.

Tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động trong 11 tháng qua, tăng 16% so với cùng kỳ 2024. (Ảnh: HNV)

Cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 11 tháng qua

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), 11 tháng năm 2025, cả nước có gần 178 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.753,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.050,8 nghìn lao động, tăng 20,9% về số doanh nghiệp, tăng 20,9% về vốn đăng ký và tăng 16% về số lao động so cùng kỳ năm 2024.

Ông Luis Alberto Hernández Tejeda, Tổng Giám đốc Công ty Alquizar và ông Nguyễn Khắc Hoàng, Tổng Giám đốc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết văn bản hợp tác. (Ảnh: Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba)

Việt Nam và Cuba ký kết dự án hợp tác nông nghiệp trị giá hơn 50 triệu USD tại Cuba

Việc Công ty Hoàng Gia Việt ký kết Hợp đồng Liên doanh kinh tế quốc tế với Công ty Nông nghiệp Alquizar thuộc Tập đoàn Doanh nghiệp Nông-Lâm nghiệp Artemisa của Cuba không chỉ là một thỏa thuận thương mại đơn thuần, mà còn là minh chứng cho nỗ lực ngoại giao kinh tế tích cực của Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba.

Nghệ nhân chế tác phụ kiện bạc tại tỉnh Hồ Nam, miền trung Trung Quốc. (Ảnh: Xinhua)

Ngày 6/12, giá bạc khôi phục đà tăng

Tính đến 10 giờ 10 phút sáng 6/12 (giờ Việt Nam), giá bạc khôi phục đà tăng, giao dịch quanh mức 58,273 USD/ounce. Cùng chiều với giá bạc thế giới, nhiều doanh nghiệp trong nước như: Phú Quý, Ancarat, Sacombank… đồng loạt điều chỉnh tăng giá bạc giao dịch ở hai chiều mua-bán.

Vận hành nhà máy điện rác ở Gia Bình, Bắc Ninh. (Ảnh NAM PHONG)

Thúc đẩy các dự án đầu tư xanh

Trong hành trình hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050, bên cạnh các chính sách chung, những chính sách cụ thể thúc đẩy đầu tư xanh giữ vai trò then chốt. Thách thức lớn nhất hiện nay là ngoài yêu cầu về kỹ thuật, hạ tầng, cơ chế phối hợp và nhân lực, các dự án xanh luôn cần nguồn vốn rất lớn.

ESG đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp muốn duy trì tính cạnh tranh, thu hút nhà đầu tư và phát triển bền vững. (Ảnh: Đỗ Bảo)

Thực hành ESG cần sự đột phá

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước liên tục ban hành các chủ trương, chính sách, định hướng quan trọng thúc đẩy kinh tế xanh và thực hành ESG (Môi trường-Xã hội-Quản trị); trong đó, nổi bật là Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.