Trung Quốc với tham vọng "cường quốc ô-tô điện"

Nắm bắt xu thế phát triển mới của ngành ô-tô thế giới, Trung Quốc đang cho thấy quyết tâm thực hiện chiến lược cạnh tranh với những ông lớn ở châu Âu và Mỹ, cùng nhau tạo thành tam giác phát triển, chiếm lĩnh 97% thị phần sản lượng ô-tô điện toàn cầu.

Ngày càng nhiều ô-tô điện chạy trên đường phố các tỉnh, thành phố của Trung Quốc.
Ngày càng nhiều ô-tô điện chạy trên đường phố các tỉnh, thành phố của Trung Quốc.

Sức mạnh của thị trường tỷ dân

Nằm trong tổng thể của chiến lược phát triển ô-tô sử dụng năng lượng mới, ô-tô điện của Trung Quốc hiện được Chính phủ Trung Quốc áp mục riêng trong quy định Quản lý đầu tư ngành sản xuất ô-tô. Theo đó, chính quyền địa phương được trao thẩm quyền phê duyệt các dự án ô-tô điện, thông qua việc hạn chế việc huy động vốn và sử dụng hạ tầng, quy định chỉ cho phép mỗi dự án ô-tô điện mới được sản xuất tối đa 100 nghìn xe dưới chín chỗ. Mục đích là quy hoạch lại số lượng của các công ty lĩnh vực sản xuất xe điện, sau một thời gian phát triển ồ ạt về số lượng; thúc đẩy tiêu thụ căn cứ lưu lượng phương tiện giao thông của từng địa phương. Mặt khác, xúc tiến nghiên cứu phát triển và sáng tạo mẫu mã phù hợp với từng địa hình, thói quen sử dụng phương tiện.

Với thị trường khổng lồ và khát vọng vươn tầm thế giới, ngành ô-tô điện nói riêng và ô-tô sử dụng năng lượng mới của Trung Quốc nói chung đang được Chính phủ nước này hết sức quan tâm. Kể từ năm 2016, ô-tô điện Trung Quốc bước vào giai đoạn "trưởng thành" sau nhiều năm phát triển ồ ạt, với những thương hiệu quốc nội mạnh như BYD, Geely, Nio. Mới đây, một chính sách mới yêu cầu tới năm 2025, sản lượng ô-tô sử dụng năng lượng mới phải đạt 25% tổng sản lượng; vào năm 2035, ô-tô điện trở thành sản phẩm tiêu thụ chủ yếu của thị trường ô-tô trong nước...

Ngoài vị thế của nước có sản lượng xe ô-tô điện dẫn đầu thế giới, Trung Quốc còn đang chiếm tới 60% thị phần sản xuất pin xe điện toàn cầu trong năm 2016. Ðơn cử, hãng pin Contemporary Amperex Technology (CATL) của Trung Quốc đã trở thành nhà cung cấp pin cho Tesla và nhiều hãng ô-tô điện khác. Nhờ lực đẩy của thị trường trong nước, CATL trở thành công ty sản xuất pin xe điện quy mô số một toàn cầu. Năm 2020, trong tổng công suất sản xuất pin gần 63,3 GWh của Trung Quốc, riêng CATL chiếm 50%, đạt 31,79 GWh. Ngoài hợp tác với Tesla, CATL đã gia nhập thị trường châu Âu, trở thành nhà cung cấp sản phẩm cho Hà Lan, Italia, Ðức.

Sức bật từ chính sách "ba chuyển hóa"

Năm 2021 đánh dấu bước nhảy giai đoạn của ngành ô-tô sử dụng năng lượng mới Trung Quốc. Tuy bị tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, nhưng mức tiêu thụ của loại hình phương tiện này vẫn tăng 8% so năm 2020. Chính sách hỗ trợ kép của quốc gia và địa phương, nhất là những tiêu chuẩn bắt buộc mới, chính sách "ba chuyển hóa" gồm: điện khí hóa, thông minh hóa và chia sẻ hóa là những nhân tố mở ra các xu thế phát triển phù hợp thời đại của ngành ô-tô điện của Trung Quốc, bao gồm xu thế phát triển đồng bộ điện khí hóa - kết nối mạng - kết nối thông minh; đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc và giám sát tạm thu hồi giúp bảo đảm sự an toàn lưu thông; xe điện - chở khách, pin nhiên liệu - xe thương mại; thay pin - sạc pin phát triển song song; các hãng lớn phát triển tập trung và duy trì hợp tác…

Ðể trở thành cường quốc ô-tô, việc phát triển ô-tô sử dụng năng lượng mới là con đường bắt buộc phải đi, cùng với việc đáp ứng yêu cầu chiến lược về công tác ứng phó biến đổi khí hậu và xanh hóa môi trường. Muốn vậy, sản lượng cần đi kèm với chất lượng. Vì thế, các chính sách thúc đẩy của từng địa phương đang hướng tới nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và bố cục cơ sở hạ tầng.

Tại Thiên Tân, ngành sản xuất hydro được ủng hộ từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp hóa. Thông qua Quỹ giải thưởng xây dựng cơ sở hạ tầng ô-tô năng lượng mới, căn cứ trên tài sản cố định hỗ trợ 30% trên tổng số vốn đầu tư, mỗi dự án cơ sở hạ tầng nhận được không quá 5 triệu nhân dân tệ (khoảng 160.000 USD). Tại Thủ đô Bắc Kinh, việc thúc đẩy quy mô các chuỗi công nghiệp sản xuất pin nhiên liệu trở thành doanh nghiệp đầu tàu. Trong quy hoạch phát triển chuỗi công nghiệp sản xuất pin nhiên liệu 2020 - 2025, Bắc Kinh đặt mục tiêu trước năm 2025 có 5 - 10 công ty đầu tàu trong lĩnh vực này đạt tầm quốc tế, và dự kiến ra mắt 10 nghìn chiếc ô-tô chạy pin nhiên liệu, giá trị sản lượng toàn chuỗi đạt 24 tỷ nhân dân tệ (khoảng 3,75 tỷ USD). Tại Thượng Hải, giai đoạn 2020-2022 hoàn thiện mạng lưới trạm sạc cho xe ô-tô điện, hoàn thành lắp đặt 100 nghìn trụ sạc pin, 45 điểm sạc kiểu mẫu cho xe taxi… và nhiều thành phố khác cũng cập nhật liên tục các chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ và sử dụng xe ô-tô năng lượng mới...

Người tiêu dùng nước này là đối tượng chính sách ưu đãi hướng tới. Các thành phố lớn như Bắc Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải… từng có giai đoạn nới lỏng quản lý cấp chỉ tiêu mua xe dành cho ô-tô điện. Song, bước sang giai đoạn thúc đẩy sản lượng, dịch chuyển thói quen sử dụng phương tiện, tạo độ thân thiện với người tiêu dùng, nhiều địa phương đang siết chặt quản lý để tiến hành phân bổ lại thị trường tiêu thụ, hài hòa các loại hình giao thông toàn quốc.

Theo khảo sát, đại đa số những xe điện đang lăn bánh trên các tỉnh, thành phố lớn, nơi có mật độ giao thông cao đều là xe dịch vụ, hoặc taxi công nghệ. Người tiêu dùng cá nhân hiện chưa thật sự tin tưởng vào công nghệ sản xuất trong nước, nhất là những nhà sản xuất xe điện giá rẻ. Trong lộ trình tới năm 2035, tạo dựng niềm tin công nghệ, tối ưu hóa hạ tầng, thay đổi quan niệm tiêu dùng, sẽ là công việc trọng tâm của ngành ô-tô điện nói riêng và ô-tô năng lượng sạch nói chung của Trung Quốc 

Theo thống kê mới nhất tại Trung Quốc, xe ô-tô thuần điện chiếm hơn 81% trong số 5,5 triệu xe ô-tô sử dụng năng lượng mới đang lưu hành; toàn quốc có tổng cộng 1,88 triệu trụ sạc, gồm 1 triệu trụ sạc của tư nhân, 880 nghìn trụ sạc công.

Tổ chức chuyên đề: Lưu Hương Giang và Lê Ðức Nghĩa.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.