Theo báo cáo của Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2021-2025 đạt nhiều kết quả tích cực so với giai đoạn 2016-2020. Toàn ngành đã công nhận được 225 giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp (tăng 6,6%); 150 tiến bộ kỹ thuật (tăng 1,8%); cấp 158 bằng độc quyền sáng chế/sở hữu trí tuệ/giải pháp hữu ích/quy trình công nghệ/hướng dẫn kỹ thuật (tăng 34%); cung cấp 72 cơ sở khoa học phục vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo điều hành, quản lý nhà nước; sản xuất được 31 thiết bị/vật liệu mới. Công bố 3.665 bài báo khoa học quốc tế (tăng 49%), 6.540 bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành trong nước (tăng 34%); Đào tạo 415 thạc sĩ và 212 tiến sĩ.
Ngoài ra, ngành cũng triển khai hơn 1.000 mô hình sản xuất nông nghiệp có ứng dụng khoa học công nghệ. Xây dựng và công bố 193 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), ban hành 1.864 Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN); hiện đang tiếp tục xây dựng 3 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và 82 Tiêu chuẩn quốc gia, hoàn thành trong năm 2025.
Kết quả khoa học công nghệ đã được chuyển giao, ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp thông qua doanh nghiệp và người nông dân, góp phần quan trọng giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản đã giúp tăng hiệu quả kinh tế từ 10-30%; góp phần thay đổi tập quán, thói quen canh tác, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của ngành.
Hoạt động khoa học công nghệ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường được đánh giá, ghi nhận và trao tặng 1 giải thưởng Hồ Chí Minh, 3 giải thưởng cấp Nhà nước về khoa học công nghệ, hàng chục giải thưởng nhân tài đất Việt, giải cuộc thi Sáng kiến Khoa học 2024.
Tuy nhiên về tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ cũng còn những tồn tại, hạn chế. Vụ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Văn Long cho rằng, mặc dù được giao nhiệm vụ, nhưng nhiều nhiệm vụ chưa được bố trí kinh phí triển khai; yêu cầu trình kế hoạch, đề án, dự án phải có đầy đủ hồ sơ theo quy định nhưng do thời gian ngắn nên các đơn vị chưa kịp chuẩn bị, đề xuất và hoàn thiện hồ sơ để xem xét bố trí kinh phí.
Bên cạnh đó, các Luật, các Nghị định về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mới có hiệu lực; các công nghệ chiến lược mới được quan tâm và công bố, đồng thời các quy định cũng đang được hoàn thiện, do đó việc triển khai tổ chức thực hiện cần thêm thời gian.
Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong ngành còn thiếu tầm nhìn dài hạn. Nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp, môi trường còn thấp, thị trường khoa học công nghệ chưa phát triển nên chưa tạo động lực cạnh tranh và thu hút nhân tài. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ ngành nông nghiệp, môi trường vừa thiếu, vừa yếu, chưa theo kịp các yêu cầu công nghệ mới, hiện đại; khả năng nghiên cứu ứng dụng còn hạn chế, ít công trình được thương mại hóa hoặc áp dụng thực tế.
Hệ thống đào tạo chưa gắn chặt với nhu cầu thực tiễn, chính sách đãi ngộ, thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao chưa đủ hấp dẫn. Đầu tư cho công nghệ chiến lược đòi hỏi kinh phí lớn và thời gian dài trong khi việc quy hoạch, lựa chọn công nghệ chiến lược mới bắt đầu được hình thành và có các quy định cụ thể.
Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường; đề cao việc đưa các kết quả nghiên cứu vào thực tế sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm mới để nâng cao năng lực cạnh tranh cho toàn ngành. Theo đó, cần gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu với thực tiễn sản xuất, bám sát nhu cầu thực tế, tạo ra đột phá trong nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo...