Thúc đẩy các giải pháp đồng bộ

Miễn viện phí toàn dân được xem là bước đột phá trong chính sách y tế của Việt Nam.

Hệ thống y tế cần được tiếp tục nâng cao năng lực, cải thiện chất lượng dịch vụ để bảo đảm khám miễn phí phải chất lượng. (Ảnh: THANH XUÂN)
Hệ thống y tế cần được tiếp tục nâng cao năng lực, cải thiện chất lượng dịch vụ để bảo đảm khám miễn phí phải chất lượng. (Ảnh: THANH XUÂN)

Để hiện thực hóa lộ trình tăng mức thanh toán bảo hiểm y tế và miễn viện phí cơ bản từ năm 2030, các cơ quan chức năng đang xây dựng chiến lược tài chính bền vững, kiểm soát lạm dụng dịch vụ và cụ thể hóa gói dịch vụ y tế phù hợp với điều kiện nước ta.

Bảo hiểm y tế làm trụ cột

Những năm gần đây, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân không chỉ là được điều trị khi ốm đau còn bao gồm quyền được phòng ngừa bệnh tật và tiếp cận dịch vụ chất lượng mà không chịu gánh nặng tài chính. Tuy tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 94,29%, chi tiêu trực tiếp từ tiền túi người dân vẫn chiếm hơn 40% tổng chi phí khám, chữa bệnh, cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), gây nguy cơ nghèo hóa do bệnh tật, đặc biệt với người nghèo, nhóm yếu thế và bệnh nhân mạn tính.

Theo ước tính của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, tổng chi phí người bệnh cùng chi trả hiện khoảng 21,5 nghìn tỷ đồng/năm, trong khi chi phí dự kiến thực hiện miễn viện phí cơ bản còn tăng do nhu cầu khám, chữa bệnh cũng dự kiến sẽ tăng lên.

Chính sách miễn viện phí cơ bản dựa trên bảo hiểm y tế toàn dân, kết hợp ngân sách Nhà nước và nguồn lực xã hội hóa, được kỳ vọng giảm bớt gánh nặng này. Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Vũ Mạnh Hà nhấn mạnh: Ngân sách Nhà nước và Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ chi trả các chi phí y tế cơ bản, thiết yếu, giảm tối đa gánh nặng tài chính cho người dân, trước hết là đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế và nhóm thu nhập thấp. Dịch vụ y tế vượt mức cơ bản vẫn do người bệnh chi trả để nâng cao ý thức sử dụng dịch vụ hợp lý.

Cũng theo Thứ trưởng Vũ Mạnh Hà, Bộ Y tế đề xuất lộ trình miễn viện phí triển khai theo ba giai đoạn. Giai đoạn từ năm 2026: Người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc sàng lọc miễn phí ít nhất một lần/năm, tùy nhóm đối tượng và ưu tiên lộ trình. Người tham gia bảo hiểm y tế thuộc hộ cận nghèo, người từ 75 tuổi trở lên hưởng trợ cấp hưu trí xã hội được chi trả 100% chi phí khám, chữa bệnh trong phạm vi quyền lợi. Giai đoạn 2026-2027: Nâng mức chi trả bảo hiểm y tế cho thuốc, trang thiết bị và kỹ thuật khám, chữa bệnh.

Giai đoạn 2028-2030: Giảm chi tiền túi xuống dưới 30%, mở rộng danh mục thuốc, thiết bị và kỹ thuật được bảo hiểm y tế thanh toán; thí điểm sàng lọc hai, ba bệnh có chi phí hiệu quả; chi trả dịch vụ phòng bệnh từ Quỹ Bảo hiểm y tế; nâng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên 95%. Từ năm 2030, thử nghiệm bảo hiểm y tế bổ sung với đa dạng gói quyền lợi, hướng tới bảo hiểm y tế toàn dân, miễn viện phí trong phạm vi gói dịch vụ cơ bản và sàng lọc ba đến năm bệnh phổ biến. Từ năm 2032, hoàn thiện y tế cơ sở và hệ thống thanh toán bảo hiểm y tế thông minh, đa tầng, đa gói quyền lợi.

Đại diện nhiều cơ sở y tế đánh giá: Chủ trương này là một tuyên ngôn về chiến lược chăm sóc sức khỏe nhân dân, chuyển từ bị động chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh và phát hiện sớm. Đây sẽ là bước tiến quan trọng trong công tác an sinh xã hội, nếu có sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, cùng một lộ trình bài bản, khoa học.

Theo tính toán của Bộ Y tế, chi phí khám sức khỏe định kỳ bình quân khoảng 250.000 đồng/lần; với 100 triệu dân, ngân sách cần khoảng 25.000 tỷ đồng/năm. Nếu toàn bộ người tham gia bảo hiểm y tế đều đi khám định kỳ, Quỹ Bảo hiểm y tế có thể chi trả phần lớn, phần còn lại có thể từ ngân sách hoặc xã hội hóa. Với các giải pháp đồng bộ, việc triển khai miễn viện phí cơ bản hoàn toàn khả thi.

Tuy nhiên, triển khai miễn viện phí cơ bản cũng còn tiềm ẩn không ít thách thức. Nguy cơ lạm dụng dịch vụ y tế có thể gây bội chi Quỹ Bảo hiểm y tế. Chi phí khám, chữa bệnh vẫn tăng cao với số lượt khám bảo hiểm y tế đến tháng 11/2025 đạt 177,8 triệu lượt, tăng 10,2 triệu lượt so với cùng kỳ, chi phí thanh toán tăng 16,2%. Chi phí chiếm tỷ trọng cao gồm tiền giường tăng 26,3%, vật tư y tế tăng 21,5%, thuốc tăng 10,1%, chi phí khám tăng 31,6%, chi phí xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh tăng 22,2%. Các cơ quan bảo hiểm y tế đã kiểm tra các cơ sở có chi phí tăng bất thường để bảo đảm tuân thủ quy trình giám định và thanh toán.

11-3686.jpg
Từ năm 2026, người dân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một lần/năm. (Ảnh ĐẠT ĐẠT)

Hướng tới giảm gánh nặng tài chính cho người dân

Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quỹ Bảo hiểm y tế hiện chi trả 87-89% tổng chi phí khám, chữa bệnh, phần còn lại 11-13% người dân sẽ đồng chi trả. Nếu triển khai miễn viện phí cơ bản, gánh nặng tài chính sẽ giảm mạnh, giúp người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế. Dù tỷ lệ chi tiền túi của người dân đã giảm từ 60-70% (đầu những năm 2000) xuống còn 41- 46% giai đoạn 2016-2022, viện phí vẫn là gánh nặng lớn với người nghèo, người mắc bệnh nặng hoặc mạn tính.

Để chính sách triển khai hiệu quả, đặc biệt ở tuyến y tế cơ sở, các chuyên gia nhấn mạnh, cần đầu tư đủ về nhân lực, cơ sở vật chất và có lộ trình rõ ràng, bền vững. Tính khả thi của chính sách phụ thuộc vào ba yếu tố: Đầu tư đúng mức cho hệ thống y tế cơ sở; Cải thiện chính sách về nhân lực y tế một cách thực chất; Tổ chức khám sức khỏe định kỳ linh hoạt, sáng tạo, ứng dụng khoa học-công nghệ và mô hình khám lưu động.

Bộ Y tế đang thúc đẩy các giải pháp đồng bộ nhằm triển khai chính sách miễn viện phí cơ bản, hướng tới giảm gánh nặng tài chính cho người dân cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực y tế. Theo đó, việc nâng cao chất lượng dịch vụ tại tuyến y tế cơ sở, áp dụng công nghệ số và cơ chế thanh toán thông minh được xem là trọng tâm.

Để giảm quá tải bệnh viện tuyến trên và giúp người dân tiếp cận chăm sóc ban đầu ngay tại cộng đồng, Bộ Y tế đề xuất tăng cường năng lực cho các trạm y tế, bao gồm đầu tư đồng bộ về nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị. Việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại tuyến y tế cơ sở được xem là biện pháp quan trọng nhằm triển khai miễn viện phí hiệu quả.

TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết: Các đơn vị đang xây dựng đề án chi tiết, quy định danh mục xét nghiệm và cận lâm sàng thiết yếu, với mục tiêu thiết kế gói khám sức khỏe định kỳ vừa hiệu quả, vừa tiết kiệm, bảo đảm mọi người dân đều được kiểm tra sức khỏe. Ngoài ra, việc áp dụng hồ sơ sức khỏe điện tử cùng hệ thống thanh toán thông minh giúp theo dõi tình hình sử dụng dịch vụ, phát hiện và ngăn chặn lạm dụng, trùng lặp xét nghiệm hoặc kê đơn không cần thiết. Đồng thời, các chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả khám, chữa bệnh được gắn với cơ chế thanh toán, nhằm bảo đảm nguồn lực y tế được sử dụng đúng mục đích và có trách nhiệm.

Còn theo Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Đức Hòa: Các cơ sở khám, chữa bệnh cần tuân thủ nghiêm quy trình giám định và thanh toán, kiên quyết không thanh toán chi phí không hợp lý. Dự báo chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế sẽ còn tiếp tục tăng trong tháng cuối năm, vì vậy các địa phương cần nâng cao chất lượng giám định, kiểm tra và bảo đảm các cơ sở thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng khám, chữa bệnh.

Một yếu tố then chốt để triển khai miễn viện phí cơ bản hiệu quả là xây dựng gói dịch vụ y tế cơ bản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Gói dịch vụ này xác định rõ các dịch vụ thiết yếu mà Quỹ Bảo hiểm y tế và Nhà nước chi trả, trước hết là các dịch vụ khám, chữa bệnh thông thường, sàng lọc và chẩn đoán sớm. Việc xác định danh mục dịch vụ, kỹ thuật và thuốc phải dựa trên nghiên cứu khoa học, hiệu quả chi phí và tầm quan trọng y tế, vừa mang lại quyền lợi thiết thực, vừa bảo đảm quỹ tài chính không quá tải. Chính sách ưu tiên cho các nhóm yếu thế gồm người nghèo, người cận nghèo, người cao tuổi và các đối tượng chính sách xã hội, nhằm hiện thực hóa mục tiêu không để ai bị bỏ lại phía sau.

Cuối cùng, nhằm bảo đảm tính bền vững, cần thiết tăng mức đóng bảo hiểm y tế theo lộ trình, đồng thời Nhà nước hỗ trợ một phần cho các nhóm yếu thế. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa nguồn tài chính như bảo hiểm y tế bổ sung, bảo hiểm sức khỏe thương mại và khuyến khích xã hội hóa được xem là giải pháp hiệu quả để chia sẻ gánh nặng tài chính ■

Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan:

Nghị quyết không đặt mục tiêu “miễn phí tuyệt đối”, mà hướng đến giảm tối đa chi phí đồng chi trả của người dân, tăng độ bao phủ bảo hiểm y tế, giảm tử vong do phát hiện bệnh muộn và xây dựng hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, bền vững.

Có thể bạn quan tâm

Người dân đến khám bệnh tại Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội). (Ảnh Thế Đại)

Rà soát, nâng cao quyền lợi người bệnh

Tám năm qua, danh mục thuốc bảo hiểm y tế thanh toán hầu như không thay đổi. Mới đây, Bộ Y tế đề xuất bổ sung 76 thuốc mới, trong đó có 28 thuốc điều trị ung thư và điều hòa miễn dịch, bao gồm 22 thuốc điều trị đích, là nhóm thuốc có chi phí đắt đỏ hiện nay.

Ảnh: Thành Đạt

Không gian sống cho tương lai

Diện mạo của từng ngôi làng, từng khu đô thị, từng địa phương, thành phố đã và đang trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ cùng tầm nhìn mới trong các quy hoạch cho tương lai.

Một dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp (Hà Nội) bị chậm tiến độ.

Tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm tiện nghi

Phát triển nhà ở xã hội bền vững, chất lượng với không gian sống tiết kiệm nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi cho người có thu nhập thấp, không chỉ là yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền có chỗ ở của người dân.

Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.

Tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi

Để tiếp cận kiến trúc theo hướng bền vững, cần có sự tích hợp giữa tính toàn cầu và tính địa phương, nhằm tạo nên sự cân bằng ổn định trong bối cảnh hiện nay (*)

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Hóa giải những thách thức

Những mái nhà ngói ba gian hai chái nhuốm màu rêu phong lấp ló bên rặng tre làng và bờ ao biêng biếc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đang ngày càng thưa vắng dần. Lũy tre và bờ ao bao quanh làng dần biến mất, nhường chỗ cho các con đường bê-tông dài rộng, các tòa nhà hai, ba tầng mái tôn theo kiểu dáng nhà mặt phố.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.

Kiến thiết với tâm thế mới

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.