Thêm lực đẩy phát triển nhà ở xã hội

Việc hình thành “Quỹ nhà ở quốc gia” được kỳ vọng là “phao cứu sinh” cho hàng triệu người lao động có thu nhập thấp nắm được cơ hội an cư lạc nghiệp. Đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt tại các khu công nghiệp, đô thị lớn và khắc phục tình trạng lệch pha cung-cầu, bảo đảm tính bền vững của thị trường bất động sản.
Khu nhà ở xã hội cần được bố trí ở khu vực có thể phát triển hài hòa hạ tầng phục vụ dân sinh. Ảnh: THẾ ĐẠI
Khu nhà ở xã hội cần được bố trí ở khu vực có thể phát triển hài hòa hạ tầng phục vụ dân sinh. Ảnh: THẾ ĐẠI

Tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương hồi cuối tháng 2 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã gợi mở ý tưởng nghiên cứu thành lập “Quỹ nhà ở quốc gia” để phát triển nhà giá rẻ tại các đô thị lớn. Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ cũng giao Bộ Xây dựng nghiên cứu mô hình Quỹ nhà ở quốc gia. Và đến ngày 17/3, Bộ Xây dựng đã có Tờ trình Chính phủ số 08/TTr-BXD “đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội”, trong đó đề cập đến việc thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia.

Nhiều vướng mắc cần tháo gỡ

Luật Nhà ở năm 2023 xác định các đối tượng được hưởng chính sách về nhà ở xã hội là người thiếu hụt về thu nhập, khó khăn trong khả năng tự bảo đảm chi trả cho các dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó có nhà ở. Đây thường là các đối tượng yếu thế trong xã hội ở cả khu vực thành thị và nông thôn, cần được trợ giúp trong điều kiện nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình và phù hợp quan điểm phát triển “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Bằng sự quyết tâm của hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế và của người dân, thời gian qua, nhiều dự án nhà ở xã hội đã được triển khai và hoàn thành, góp phần hỗ trợ người có thu nhập thấp, công nhân, người lao động được “an cư lạc nghiệp”, từng bước hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo nhân văn của Đảng ta. Việc thực hiện Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030”, đã đạt được kết quả bước đầu. Chúng ta đặt mục tiêu kép là vừa huy động được nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển nhà ở xã hội vừa giúp những người khó khăn có chỗ ở, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cho vay với lãi suất ưu đãi, miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...

Tuy nhiên, các chính sách đưa ra chưa giải quyết được vấn đề cốt lõi và bảo đảm lợi nhuận hợp lý cho chủ đầu tư vừa cung cấp nhà với giá hợp lý cho người thuộc diện thụ hưởng; nhiều dự án chậm tiến độ, chậm triển khai. Nguyên nhân chính có thể kể ra là: Sự thiếu đồng bộ khi thực hiện chính sách, thủ tục còn rườm rà; quy định cứng về khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư được hưởng như mức lợi nhuận định mức không quá 10% đối với nhà ở xã hội bán và không quá 15% với nhà ở xã hội cho thuê hoặc thuê mua trên tổng chi phí đầu tư mà không tính các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp... Quy định chủ đầu tư chỉ được bán nhà sau 5 năm sử dụng với 20% diện tích nhà ở xã hội dùng cho thuê trong dự án gây ra lãng phí, vì phần diện tích cho thuê thường không được lấp đầy...

Hướng đi chiến lược

Bảo đảm “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” là một trong tám đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và xác định, việc chăm lo giải quyết chỗ ở cho người dân và an sinh xã hội là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế-xã hội. Việc thành lập “Quỹ nhà ở quốc gia” được đánh giá là một giải pháp quan trọng giúp giải quyết bài toán nhà ở cho người có thu nhập trung bình và thấp tại các đô thị lớn. Song “Quỹ nhà ở quốc gia” cần bao trùm “Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia” mà Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính đang nghiên cứu, thành lập.

“Quỹ nhà ở quốc gia” có thể được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách Nhà nước, trái phiếu nhà ở, đóng góp từ doanh nghiệp và người lao động, cũng như thu nhập từ các khoản vay trước đó. Mục tiêu của quỹ là cung cấp các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất hoặc tài trợ trực tiếp cho các dự án nhà ở xã hội, giúp những người thu nhập thấp và trung bình có cơ hội sở hữu hoặc thuê nhà với chi phí hợp lý.

Để hình thành “Quỹ nhà ở quốc gia”, trước mắt, cần giải quyết được một số vấn đề sau: Thứ nhất, định hình cơ cấu vốn huy động để phát triển nhà ở xã hội. Các nguồn vốn được huy động riêng rẽ, không có đơn vị chủ trì, không xác định được quy mô của từng nguồn vốn, tỷ lệ từng loại vốn dùng để phát triển số lượng căn hộ theo nhu cầu dẫn đến việc thiếu chủ động trong điều hành phát triển các dự án nhà ở xã hội. “Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia” hình thành giúp xác định được cơ cấu nguồn vốn đầu tư nhà ở xã hội trên cơ sở tính toán xác định nhu cầu thuê, mua, thuê mua, cải tạo và sửa chữa nhà ở của các đối tượng được hưởng chính sách, nhờ đó xây dựng được kế hoạch huy động vốn cụ thể từ nguồn ngân sách, ngoài ngân sách, của các hộ gia đình hay tổ chức Công đoàn, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của từng bên liên quan.

Thứ hai, đồng bộ giải pháp hỗ trợ cho đối tượng hưởng chính sách. Để được hưởng chính sách về nhà ở xã hội, các đối tượng quy định tại Luật Nhà ở năm 2023 phải chưa có nhà tại nơi có dự án nhà ở xã hội hoặc có nhà nhưng diện tích bình quân thấp và phải có mức thu nhập thấp được cơ quan, tổ chức hoặc địa phương xác nhận. Sở Xây dựng địa phương là cơ quan cuối cùng quyết định danh sách những người hưởng chính sách nhà ở xã hội ở địa phương.

Thực tế, từ thời điểm đăng ký đến thời điểm nhận nhà ở xã hội là thời gian khá dài, đối tượng được thụ hưởng chính sách có nhiều biến động nhưng không có cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi thường xuyên, liên tục. Mặt khác, quy định trách nhiệm của các tổ chức, địa phương khi xác nhận điều kiện được hưởng chính sách không gắn với trách nhiệm quản lý đối tượng dẫn đến việc thực hiện chính sách chưa bảo đảm công bằng, đúng đối tượng. Các đối tượng được thụ hưởng chính sách về nhà ở xã hội được hỗ trợ mua, thuê mua, thuê nhà ở xã hội theo giá do nhà nước thẩm định hoặc phê duyệt, được vay vốn ưu đãi thông qua Ngân hàng chính sách xã hội hoặc tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định. Song giá nhà ở xã hội vẫn còn cao so thu nhập của phần lớn người lao động, tỷ lệ cho vay từ các tổ chức tín dụng còn thấp do thời hạn cho vay ngắn, lãi suất còn cao, vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội còn gặp nhiều khó khăn do thủ tục phức tạp, thiếu nguồn vốn...

Các khó khăn này sẽ được khắc phục khi hình thành “Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia”. Quỹ chịu trách nhiệm xác định, theo dõi biến động của đối tượng được hưởng chính sách, tổ chức hỗ trợ việc cho vay, thu hồi và quay vòng vốn vay, tham gia xác định giá bán, cho thuê phù hợp từng đối tượng.

Thứ ba, “Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia” được hình thành dựa trên nguồn ngân sách Nhà nước là chính bao gồm tiền vốn, quỹ đất, nhà ở có sẵn sẽ giúp sự chủ động trong việc chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng, quản lý tài sản sau đầu tư, chủ động thúc đẩy sản phẩm nhà giá rẻ, góp phần cân đối lại thị trường bất động sản nghiêng về sản phẩm nhà ở trung, cao cấp như hiện nay, dẫn dắt sự phát triển cân đối của thị trường bất động sản.

Để sớm hình thành “Quỹ nhà ở quốc gia”, cần bổ sung quy định về hình thành “Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia” vào nội dung hình thức phát triển nhà ở xã hội trong Luật Nhà ở năm 2023 (Điều 80) hoặc Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội. Thay đổi tư duy từ mục tiêu bảo đảm “ai cũng được sở hữu nhà” sang mục tiêu “ai cũng có chỗ ở”, chuyển từ hình thức có thể mua, thuê mua hoặc thuê sang hình thức cho thuê là chính nhằm phù hợp đối tượng thu nhập thấp, trong trường hợp mua nhà thì giới hạn thời gian sử dụng đất và sở hữu nhà trong vòng đời của tài sản trên đất.

Hy vọng, với sự quyết liệt của các cơ quan chuyên trách, các mục tiêu của Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030” sẽ sớm hoàn thành và mở ra một hướng đi có tính chiến lược nhằm bảo đảm sự công bằng, an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa các tầng lớp xã hội về điều kiện sống, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Quỹ phát triển nhà ở xã hội quốc gia” cần có cơ chế hoạt động minh bạch, gắn với chương trình an sinh xã hội, chương trình phát triển nhà ở của quốc gia và địa phương, được điều hành bởi tổ chức phát triển nhà ở quốc gia chuyên trách.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.