“Phố làng” trên núi cao Mưng Khảng

Tháng 8, tôi lên Lồ Sử Thàng, thôn người Nùng ở xã Dìn Chin, huyện biên giới Mường Khương cũ (nay thuộc xã Pha Long, tỉnh Lào Cai). Mường Khương tiếng địa phương đọc là “Mưng Khảng” có nghĩa là “Cột thép chống trời”, bởi nơi đây trập trùng núi đá vôi cao chất ngất bên những khe núi sâu hun hút, nơi thượng nguồn sông Chảy.

Lồ Sử Thàng hôm nay nhà xây cao tầng khang trang như phố thị.
Lồ Sử Thàng hôm nay nhà xây cao tầng khang trang như phố thị.

1. Từ trung tâm huyện lỵ Mường Khương cũ (nay là xã Mường Khương), con đường bê-tông kiên cố hóa theo chương trình Nông thôn mới vắt từ đầu dốc Tung Chung Phố của người Pa Dí luồn xuống thung sâu, rồi giăng ngang sườn núi nhấp nhô với những cái đỉnh nhọn chạm mây trời, đẹp như dải lụa mềm óng sáng tô điểm thiên nhiên thêm hữu tình nơi đầu nguồn sông Chảy.

Với người Nùng ở Lồ Sử Thàng, con đường quý hơn tất thảy, bởi nó là mạch máu, là hơi thở tiếp nuôi sức sống mạnh mẽ và tốt tươi trên vùng đất Mưng Khảng.

Tôi nhớ vào dịp sát Tết năm ấy, gió núi thốc lạnh thấu gan, lội bộ cùng anh Nùng Chản Phìn khi đó đang là Phó Chủ tịch UBND huyện Mường Khương cũ xuống Lồ Sử Thàng. Từ trụ sở xã Dìn Chin “ngự” trên miệng vực sông La Hờ tụt dốc chùn chân mỏi gối xuống bản người Nùng rặt một màu xám xịt. Những ngôi nhà đất thấp tịt, lợp mái tranh mủn đen. Con đường nhỏ hẹp xuyên qua bản ngập phân trâu ngựa đen đặc như bùn khi cơn mưa rừng vừa đổ xuống. Lồ Sử Thàng ngày ấy nghèo xơ xác, trẻ con chỉ có manh áo, chân đất co ro bên bếp lửa chập chờn trong góc nhà trống huơ hoác. Còn sớm nay, tự tay lái “con ngựa sắt bốn bánh” bon bon trên con đường bê-tông kiên cố, rộng rãi, phẳng phiu đến tận cổng nhà nữ Bí thư chi bộ Lù Thị Câu mà như không tin ở mắt mình.

Chỉ riêng chuyện về con đường thôi, cũng là một kỳ tích ở miền đất lũm xuống như cái “hõm ngực” của núi đá xứ Mường. Người già ở đây kể rằng, xa xưa người Nùng từ bên kia biên giới bị nhà Hán truy đuổi nên men theo khe núi sông Chảy mà trốn đi. Đi mãi rồi bất ngờ gặp ở vùng núi đá vôi mênh mông này cái hõm nhỏ chứa nước. Họ dừng lại ở đó, sống nhờ những hang sâu hun hút, chặt thân cây chuối mà che đỡ nắng mưa, bắt cua ốc dưới sông Chảy mà sống. Họ tự đặt tên cho mình là người Nùng Dín, gọi là “noong lẩy” nghĩa là sống sót. Thế nên, người Nùng Dín có tính tự lập rất cao và cố kết cộng đồng bền chắc như núi đá sông dài, thấm đậm nghĩa tình sau trước. Điều lạ kỳ, ở cái “hõm nước” ấy, người Nùng Dín đem những con ốc bắt được dưới lòng sông Chảy về thả nuôi thì lớn rất nhanh, bằng vốc tay người lớn. Vì thế mới có cái tên “ao ốc” theo tiếng người Nùng Dín là Lồ Sử Thàng bây giờ.

Nhớ lại, độc đạo vào Lồ Sử Thàng ngày ấy chỉ là lối mòn nhỏ, đồng bào quen gọi là “đường trâu ngựa”. Gia súc đi nhiều mà thành lối, rồi người bản theo đó mà lên nương, ra chợ huyện mua bán. Trồng được chục bao hạt bắp, nuôi được con lợn, ít gà mang ra chợ bán cũng chỉ biết gùi vai hoặc chất lên lưng ngựa, lúc về mỏi cái chân rồi thì mới được ngồi lên lưng ngựa mang theo cân muối, chai dầu hỏa dùng cho cả tháng. Vậy nên nghèo đói như “vòng kim cô” quấn chặt trên đầu, đau nhức lắm nhưng chưa cách nào thoát ra được.

Năm ấy lội bộ xuống Lồ Sử Thàng sao mà lạnh và buồn hiu hắt. Cả bản chỉ có duy nhất một ngôi nhà lum khum xây bằng đá núi, lợp mái ngói âm dương hình máng, đứng trơ trên nền đất cao gió bấc thổi căm căm. Vào nhà dân hỏi chuyện mới biết, hồi tháng 5 khô hạn mất mùa, lại thêm mưa đá “to như nắm tay” dội thủng mái nhà cũ mủn, sơ sài nên bà con đành “trốn” Tết.

52.jpg
Đổi công xây nhà ở Lồ Sử Thàng.

2. Thế rồi Chương trình xây dựng nông thôn mới, xóa nhà tạm nhà dột nát tới đã cởi trói và mở toang “cánh cửa” ngăn cách miền đất “ao ốc”. Ngày khởi công con đường vào dịp đầu năm 2013 thật sự là ngày hội chưa từng có ở miền đất này. Có người nọ còn bán tín bán nghi rằng, không biết cái đường này nó có đi được đến bản mình không? Núi đá thế kia sợ nó lại giống con ngựa già nhanh mệt, đi giữa chừng rồi nằm ệp ra.

Nhà nước hỗ trợ cho không xi-măng, cát sỏi, cử cán bộ chuyên môn xuống khảo sát kỹ, làm thiết kế kỹ thuật còn bà con toàn xã Dìn Chin, không kể làng trên bản dưới, thêm cả các doanh nghiệp trong và ngoài huyện chung tay, mỗi người một việc để con đường vươn nhanh về “ao ốc” xa xôi.

Theo chân các đảng viên chi bộ, thấm lời già làng nói “việc bé làm một mình, việc to phải nhiều người cùng làm” hơn 80 hộ người Nùng, người Bố Y ở “ao ốc” đóng công góp sức làm đường. Thế rồi gần 20 cây số đường bê-tông kiên cố, rộng rãi thay đường trâu ngựa năm xưa nối thông Lồ Sử Thàng ngược vách núi cao lên trụ sở xã ở thượng nguồn sông Chảy, xuôi qua Cốc Cáng ra chợ trung tâm đông vui, tấp nập.

Hôm thông đường, xe ô-tô huyện chạy vào, xe máy của thanh niên và phụ nữ, người già vùng “ao ốc” đi ra, tiếng máy nổ tưng bừng hòa trong tiếng cười reo như vỡ ra từ lồng ngực, sôi động cả một vùng biên giới.

Ký ức vui cứ hiện lên rờ rỡ trên hành trình trở lại miền đất thượng nguồn sông Chảy. Kia rồi, Lồ Sử Thàng hiện ra trước mặt tôi đẹp như phố huyện. Con đường bê-tông sáng óng chạy xuyên thung lũng, hai bên san sát ken dày nhà xây cao tầng, ngô vàng tươi cùng đậu tương sai quả lúc lỉu phơi tràn trước sân mỗi nhà. Đón tôi ở ngay đầu thôn, già làng Lùng Tà Chéng, gần 80 rồi mà hồ hởi như đón “cố tỷ” trở về, lộ rõ niềm vui xen lẫn tự hào trong dáng đi vững như cây nghiến trên đỉnh núi Thàng, trong ánh mắt rạng rỡ như hoa tam giác mạch trên núi đá. “Vào nhà mới đi! Mình vừa xây cái nhà to này đấy. Cho con trai nó ở riêng mà làm ăn, con cháu học hành tốt hơn”, già Chéng khoe.

“Mạnh nhất là vào năm 2020, chi bộ đặt mục tiêu xóa 10 nhà tạm mà chưa hết năm cả thôn đã xây được hơn 20 nhà. Năm ấy, cả thôn đổi công, thuê thêm cả người nơi khác đến xây nhà mới kịp đón Tết”, Bí thư Câu nhớ lại. Đến bây giờ, thôn có 83 hộ thì 80 hộ đã xây được nhà hai tầng kiên cố, thoáng đẹp. Chỉ còn ba hộ đang ở nhà gỗ, rồi cũng sẽ xóa trong nay mai thôi.

Ôn lại chuyện cũ, ông bảo: Thấy nhà cửa của bà con xập xệ, ẩm thấp, tối om om, mình là đảng viên, làm cán bộ xã thấy như có lỗi. Xây cái nhà không dễ như “con dúi ăn măng mùa mưa” nhưng sao người Thu Lao trên Tả Gia Khâu không có cả nước trộn vữa mà còn làm được? Thế là ông đi đầu làm trước, cần mẫn đục đá núi làm gạch, tự tay nhào đất đốt lò làm ngói máng để lợp, nhờ anh em trong nhà và hàng xóm xây giúp. Rồi cái nhà nhỏ khum khum xây bằng đá đầu tiên trồi lên ở Lồ Sử Thàng khô khát, minh chứng cho ý chí và nghị lực của người Nùng Dín ở miền đất “ao ốc” này. Người trong thôn học theo, chịu khó lao động tích cóp, vay thêm ngân hàng xây nhà để an cư lạc nghiệp, ông Chéng giúp ngói lợp, nhà xây mọc dần lên. Nhưng phải đến khi có con đường bê-tông to rộng của “ý Đảng lòng Dân” thì phong trào đổi công xây nhà bùng lên như khát vọng bao năm được gỡ nút thắt mà bung mở.

Hiểu biết, xông xáo, gần gũi với dân, nữ Bí thư chi bộ Lù Thị Câu cùng các đảng viên chi bộ ra hẳn “nghị quyết xây nhà”, nêu cụ thể cách làm, số nhà xây từng năm, cắt cử đảng viên hỗ trợ từng nhóm liên gia lập tổ đổi công xây nhà cho nhau. Lồ Sử Thàng thức dậy thay áo mới, rộn rã như công trường lớn. Có đường lớn rồi, xe ô-tô chở gạch, cát sỏi từ phố huyện vào dễ dàng, thuận tiện cả bốn mùa, lại thêm tấm lợp tôn đủ màu vừa bền vừa nhẹ làm ai cũng thích. Tuy mỗi viên gạch, khối cát, tấm tôn lợp tăng thêm tiền cước nhưng người Lồ Sử Thàng “bù lại” bằng công xây. Trưởng thôn nắm bắt dự tính xây nhà của bà con, lên lịch để mọi người lập các tổ đổi công xây nhà cho nhau theo kiểu cuốn chiếu, nhờ thế không mất tiền công. Mỗi cái nhà như thế tính ra tiết kiệm được hàng trăm triệu đồng. Ngay như việc vận chuyển gạch từ đường trục lên đồi cao, bà con làm cái “máng” cũng rất sáng tạo, chỉ là mấy mảnh gỗ đóng hình cái máng, buộc chặt vào sau xe máy rồi xếp lên 50 - 60 viên gạch bằng chằn chặn, chạy băng băng theo đường liên gia bê-tông đến từng nhà, thay cho địu lù cở nặng đến cháy lưng rộp vai như trước đây.

Hôm tôi đến, ở phía cuối thôn, chàng trai trẻ Vàng Phà Xưởng đang cùng “tổ đổi công” chung bữa cơm vui để chuyển sang nhà mới. Ai cũng mừng ra mặt vì đã xây xong ngôi nhà hai tầng đẹp đẽ đón Tết. Đứng trên ban-công tầng hai ngôi nhà, khắp Lồ Sử Thàng rực lên mầu hồng đỏ mái tôn nhà xây đứng nhấp nhô theo triền núi như những chiếc nấm đỏ khổng lồ thẳng lên không trung. Niềm vui mới ngập tràn “phố làng” Lồ Sử Thàng trên đất Mường Khương hùng vĩ.

Có thể bạn quan tâm

Những mùa nho Hạ Đen

Một đêm khó quên vào tháng 9/2024. Gió rít liên hồi, cuốn theo mưa như trút nước sau khi bão càn quét qua địa phận xã Nam Dương (tỉnh Bắc Ninh). Lũ ập đến, nhấn chìm vườn nho Hạ Đen rộng hàng nghìn mét vuông của vợ chồng chị Giáp Thị Tuyền.

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.