Một lễ bỏ mả

Làng H’Rach, huyện Kong Chro, Gia Lai. Buổi chiều. Ở nghĩa địa làng. Từ xa đã thấy những đám người tụ tập. Những người Kinh mang hàng hóa tới chuẩn bị để bán trong buổi tối bỏ mả. Những người làng đi lại quanh nhà mồ. Họ bận rộn dựng nhà mồ mới cho ma. Tiếng máy rè rè cưa theo những đường vạch sẵn ngay tại chỗ sẽ dựng nhà mồ.

Phía trước mọi người chuẩn bị nấu nướng là hàng ghe rượu cần dựng sẵn chờ người thử.
Phía trước mọi người chuẩn bị nấu nướng là hàng ghe rượu cần dựng sẵn chờ người thử.

Chúng tôi dựng xe gần một chiếc xe khách trông thì đoán tuổi đời chắc cỡ gấp đôi mình. Chiếc ô-tô có nhiệm vụ che mát cho chủ hàng phía trước đang dọn dẹp đồ. Nắng 2 giờ chiều. Gió ù ù.

Ngoài chiếc xe khách này, còn có năm, sáu chỗ khác nhỏ hơn, những người bán hàng đến từ đầu trải những tấm bạt ra nền đất cát, bày la liệt những trứng luộc, bim bim, bia chai, bia lon, nước ngọt, xoài, ổi…  Lễ bỏ mả bây giờ, xem ra hiện đại hơn ngày xưa rất nhiều. 

Dân làng mỗi người một việc. Đám đàn ông quây quanh nhà mồ, cưa, dựng, ghép, đóng những thanh gỗ lại, dựng thành bốn bức tường quanh nhà mồ. Đám phụ nữ bê các ghè rượu xếp thành hàng, bẻ lấy những nắm lá trên một cành cây lớn đã được chặt sẵn để một bên. Họ nhét lá vào ghè và đổ đầy nước để sẵn cho buổi tối rượu cần.

Đám thanh niên thịt lợn, nấu bếp. Các cụ già làng ngồi bên hai ghè rượu lớn. Gần với nhà mồ hơn. Đám choai choai đi xe máy rồ rồ ra ra vào vào kiểu làng có việc, nhưng đoán chỉ là đi gọi nhau đến tụ tập, loanh quanh rồi lại đi rủ người khác. Đám trẻ con long nhong, được cho vài nghìn thì ra mua trứng cút luộc, nước ngọt, bim bim. Đám chó cũng bận rộn đi loanh quanh chỗ thịt lợn, rồi quanh đám trẻ, chờ nhặt các mảnh da lợn, hay các vỏ trứng luộc. Ai cũng hào hứng.

3 giờ, tiếng cồng chiêng vang lên. “Bộ chiêng này mới mua năm ngoái, 35 triệu đó”. Một già làng tự hào khoe với tôi. Tôi chú ý một dàn chiêng 16 chiếc được treo trên một thanh tre dài có hai người khênh hai đầu. Ở giữa có hai người nữa cầm dùi vừa đi theo vừa chơi. Đây là bộ chiêng Arap, thường được dùng trong những dịp đám tang, bỏ mả, đâm trâu. Ngoài bộ chiêng Arap, còn có độ chục chiếc chiêng khác to hơn, kích thước khác nhau. Tính vào là hơn 20 cái. Dẫn đầu cả đoàn cồng chiêng là một người đánh trống, gọi là trống chơ gút. Cũng ở những lễ như thế này, tôi mới có cơ hội chiêm ngưỡng bộ chiêng như thế.

Đội cồng chiêng đi quanh nhà mồ sau khi nhà mồ đã được dựng xong. Vừa đi vừa chơi. Đám choai choai được dịp thể hiện, vác những chiếc chiêng to. Già làng bảo, “giàn chiêng bé (chiêng Arap) kia mới khó. Không phải ai cũng biết chơi”. Đám trẻ hầu như ai cũng biết đánh chiêng lớn. Đội cồng chiêng luôn đi quanh đối tượng là trọng tâm của buổi lễ, theo chiều ngược kim đồng hồ. Như hôm nay, họ đi quanh nhà mồ cả tiếng đồng hồ (và còn tiếp tục cho tới sáng hôm sau). Khi mệt thì sẽ có người thay. Tiếng chiêng hầu như không bao giờ dứt trong suốt mấy ngày lễ.

Trong lúc đó, người nhà, họ hàng vào nhà mồ ngồi khóc người đã khuất. Họ bày tỏ sự tiếc thương lần cuối trước khi làm lễ bỏ mả, chia tay vĩnh viễn với người chết. Tôi hỏi quanh thì mọi người nói người đã khuất là một người đàn ông tầm 30, 40. Tự tử bằng thuốc cỏ. Rồi có người nói người này mới chết được một năm, người khác lại bảo được ba, bốn năm rồi.

Tôi có cảm giác hỏi người đồng bào về thời gian là một việc rất khó. Vì con số chính xác hình như là một điều gì không quan trọng trong văn hóa của họ.

Chúng tôi đã trải nghiệm sâu sắc điều này rồi. Thí dụ, khi bạn hỏi “mai mấy giờ cúng ở nhà rông?” họ sẽ bảo “tầm 7, 8, 9 giờ đó”. Rồi hôm sau, bạn sẽ chờ từ 7 giờ đến 2 giờ chiều vẫn chưa thấy cúng nhà rông.

Tôi mới nhận ra, người làng không vội vã như chúng tôi. Họ được xem ngày rồi, cứ trong ngày ấy các thứ ấy xong là được. Và bao giờ tỉnh rượu thì đi thịt lợn, bao giờ thịt xong thì chia phần, chia xong thì cúng. Cứ thế thôi, không việc gì mà vội, mọi việc rồi cũng xong. Hóa ra, chúng tôi cứ vội vã, lại không hiểu văn hóa người làng.

Buổi chiều, khi người nhà và họ hàng khóc thương xong, thì người làng đến chia buồn với gia chủ và sẽ được gia chủ chia thịt. Thịt mấy con lợn vừa được làm ngay tại nghĩa địa, để trong gùi, ai đến được một vốc. Họ cứ cầm trong tay về nhà, hoặc là sẽ xin bịch nylon của hàng quán quanh đó mà đem về nhà, hoặc ra đâu đó ngồi uống rượu với nhau. Những người Kinh do đó bán được nhiều rượu và bia.

Tôi để ý một bà cụ mặc váy đen, cổ đeo nhiều vòng hạt cườm các mầu, lặng lẽ đi thử hết ghè rượu này đến ghè rượu khác. Nhưng có vẻ mọi người không thích rượu hôm nay, “chua quá. Người ta thích rượu ngọt cơ”, anh Kpató người làng bảo với chúng tôi. Thế là các ghè rượu không mấy người uống.

Tối.

Tầm 8 giờ, các làng lân cận, sang “Trao chiêng” với làng Hrach này. Người ta chơi cồng chiêng quanh nhà mồ và nhảy điệu Xoang theo nhịp chiêng. Hầu hết là thanh niên. Nam một vòng, nữ một vòng. Ai cũng có vẻ rất vui, hô lên theo nhịp. Các già làng thì ngồi một phía trước nhà mồ, quanh một chóe rượu cần lớn, vừa uống vừa nói chuyện với nhau.

Nghĩa địa càng lúc càng đông. Rượu cần, rượu đế, bia (mua của mấy người bán hàng) tiếng nhạc cồng chiêng, điệu múa rộn ràng hòa với bầu trời sao giữa núi rừng khoáng đạt, say sưa.

Đôi lúc, sức sống mãnh liệt của Tây Nguyên lúc ấy làm tôi  hơi ngợp và lo lắng. Vì núi rừng rộng lớn trong đêm? Vì quá nhiều những người đàn ông tụ tập ở một chỗ? Vì mùi rượu khắp các ngả của làng? Đúng khi tôi đang ngồi trên nền đất gần các già làng thì một chàng thanh niên liêu xiêu đi lại và đột ngột ngồi xuống. Chàng nồng nặc mùi rượu, nói cái gì không ai biết, xong ngã vật ra, ngủ. Say quá. 

Cũng có thể vì cái sức sống ấy, nên dù có bao nhiêu thứ đổi thay, cái chất Tây Nguyên tiềm tàng vẫn cứ âm ỉ mãnh liệt. Ngay cả khi nhìn bên ngoài, từ những chiếc xe đỗ ngoài bãi, những món bánh kẹo đã thành đi mua cho tiện, đến khi đêm xuống, vẫn lại thấy là người Tây Nguyên thật nhất.

“Ở đây, người đồng bào say nhưng lành lắm. Không quậy đâu”, chú Bằng, một người làng gốc bắc vào làm kinh tế đã dặn chúng tôi như thế khi chỉ đường cho chúng tôi đến bãi tha ma làng.

Đêm bỏ mả càng lúc càng đông. Thanh niên từ các làng khác sang, họ khoác tay nhau nhảy múa. Vui vẻ. Bỏ ma rồi, bỏ mả rồi, phải ăn mừng chứ.

Đây là một khởi đầu mới mà. Cho cả ma, cho cả người sống.

Lúc mới chết, người ta dựng nhà mồ tạm cho ma, vì quan niệm là ma vẫn sống song song với người sống. Họ thăm viếng thường xuyên và mang thức ăn cho ma nữa. Rồi chia cả đồ đạc trong nhà, như là gùi, là ghè rượu… Nói chung, người sống được thế nào, người chết được thế ấy. Người góa phụ thì sẽ phải ăn mặc xấu xí, rách rưới trong thời gian chưa bỏ mả. Giờ bỏ mả rồi, họ dựng một ngôi nhà mồ mới, đẹp hơn cho ma, rồi bỏ mả, bỏ ma. Từ nay, ma có thể vĩnh viễn về với tổ tiên, có thể tái sinh làm người ở một kiếp khác. Còn người sống, thì có thể bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Tự do khỏi những kiêng kỵ tang gia. Góa phụ có thể ăn mặc xinh đẹp, có thể tái giá rồi, cả làng vui cho cô. Chia tay vĩnh viễn với ma từ đây.

Từ nay, chúng ta bắt đầu những cuộc đời mới. Nên ăn mừng là phải. Nên phải uống rượu cần cho đủ “kang”. Người ta có một cái que đặt ngang miệng ghè rượu. Ở giữa là một đoạn tre dài độ 2, 3 cm. Khi ai đó được mời, thì người ta thêm nước tới miệng ghè rượu. Cần được đưa bằng tay phải, vì tay trái là dành cho ma. Tay phải nhận cần, hãy uống cho đến khi cái que lộ ra, là hết một “kang”. 

Chúng tôi làm hết mấy “kang”, hút thuốc tẩu cùng các già làng, rồi về nhà đi ngủ, trong tiếng cồng chiêng vẫn âm vang núi rừng.

Có thể bạn quan tâm

Những mùa nho Hạ Đen

Một đêm khó quên vào tháng 9/2024. Gió rít liên hồi, cuốn theo mưa như trút nước sau khi bão càn quét qua địa phận xã Nam Dương (tỉnh Bắc Ninh). Lũ ập đến, nhấn chìm vườn nho Hạ Đen rộng hàng nghìn mét vuông của vợ chồng chị Giáp Thị Tuyền.

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.