Luật Nhà giáo với những đòi hỏi cần làm rõ

Từ năm 2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao cho Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện đề tài khoa học cấp nhà nước về Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Luật Nhà giáo.
Cô trò Trường THPT Việt Đức (Hà Nội) trong giờ giải lao. Ảnh: Thành Đạt
Cô trò Trường THPT Việt Đức (Hà Nội) trong giờ giải lao. Ảnh: Thành Đạt

Đề tài này đã hình thành cơ sở lý luận và một số nghiên cứu thực tiễn để xây dựng luật với những nội dung chính đáng chú ý như sau: thực trạng đội ngũ nhà giáo và việc thực hiện pháp luật với chế độ chính sách nhà giáo, kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà giáo bằng pháp luật, khung chính sách đối với nhà giáo (bao gồm các nội dung về: Vị trí, vai trò, vị thế đội ngũ nhà giáo; Quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ nhà giáo; Vấn đề tuyển sinh, đào tạo để trở thành nhà giáo; Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo; Tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, sàng lọc đội ngũ nhà giáo; Vấn đề lương và các điều kiện làm việc của nhà giáo; Vấn đề tôn vinh, khen thưởng nhà giáo; Vấn đề hội nhập quốc tế đối với công tác phát triển đội ngũ; Vấn đề quản lý nhà nước về nhà giáo.

Có thể nói Đề tài trên đã bao trùm hầu hết các chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo, bước đầu làm cơ sở để xây dựng luật. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều vấn đề cần được đặt ra khi bắt tay vào xây dựng Luật Nhà giáo.

Trước hết, đâu là sự cần thiết phải ban hành Luật Nhà giáo? Phải chăng chúng ta đang thiếu các chính sách phát triển đội ngũ nhà giáo? Phải chăng rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật ra đời nhưng chưa vào được cuộc sống? Vẫn còn rất nhiều những vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa nhà trường và cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương. Vẫn còn đâu đó mối quan hệ thiếu lành mạnh giữa giáo viên với nhau và với cán bộ quản ý nhà trường (đặc biệt là hiện tượng mất dân chủ trong nhà trường), giữa giáo viên với học sinh và với cộng đồng xã hội. Rồi những hiện tượng giáo viên bỏ việc hoặc tìm đủ mọi cách để có việc làm trong ngành giáo dục diễn ra đồng thời... Vì thế các nhà làm luật rất cần tìm hiểu nguyên nhân gốc rễ của những vấn đề nổi cộm hiện nay một cách toàn diện để một khi luật được xây dựng và thông qua sẽ giảm bớt được những vấn đề lưu cữu từ nhiều năm chưa được giải quyết. Rất cần phải xác định trúng vấn đề, nguyên nhân để tìm ra giải pháp chính sách rồi thể chế hóa chính sách thành luật, khi đó tính khả thi sẽ cao hơn.

Tiếp đó, rất cần có đánh giá những tác động chính sách và tác động của luật pháp đã ban hành đến chất lượng, hiệu quả và sự công bằng giáo dục. Nói cách khác, cần đánh giá kết quả và những tác động của các chính sách của Đảng về phát triển đội ngũ nhà giáo và các chính sách pháp luật liên quan đến nhà giáo như Chỉ thị 40/2004/CT-TW của Ban Bí thư bên cạnh các luật: Giáo dục, Giáo dục đại học, Giáo dục nghề nghiệp, Việc làm, Thi đua khen thưởng và rất nhiều nghị định của Chính phủ liên quan. Có thể nói đây là công việc rất đồ sộ cần nghiên cứu đánh giá khoa học để có số liệu thuyết phục các đại biểu Quốc hội nghe và thấu hiểu, có sự đồng thuận về sự cần thiết và cách làm bài bản của cơ quan được giao xây dựng luật.

Luật cần thể hiện sự phân cấp trong quản lý nguồn nhân lực cho địa phương và cho cơ sở giáo dục để cơ sở giáo dục có quyền chủ động trong tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, sa thải.

Ngành giáo dục rất cần thay đổi mô hình quản lý dựa vào cộng đồng, đẩy mạnh dân chủ cơ sở, cắt bỏ các cơ quan quản lý trung gian để giao trách nhiệm giải trình cho người đứng đầu cơ sở giáo dục. Vấn đề không chỉ là lương bổng và thu nhập của đội ngũ nhà giáo mà để cho nhà giáo yên tâm làm việc thì môi trường làm việc phải thật sự dân chủ... thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ quan quản lý giáo dục địa phương, trung ương, giữa giáo viên và lãnh đạo nhà trường, với học sinh và cộng đồng nói chung. Chỉ có dân chủ thực chất trong trường học thì giáo viên và học sinh mới cảm thấy được tôn trọng để có động lực sáng tạo, cống hiến hết lòng cho sự nghiệp.

Luật Nhà giáo nếu được xây dựng và ban hành cần bao trùm lên cả hệ thống giáo dục và đào tạo bao gồm nhà giáo ở bậc giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, và giáo dục đại học mà không chỉ giới hạn ở nhà giáo trong giáo dục phổ thông. Nói như thế để bảo đảm tính nhất quán của hệ thống chính sách, luật pháp liên quan. Đó không chỉ là đội ngũ nhà giáo thuần túy mà còn phải điều chỉnh cả đội ngũ cán bộ quản lý cơ sở giáo dục - vì những người này cũng là nhà giáo. Ngoài ra, những giáo viên người nước ngoài theo các chương trình hợp tác cũng cần được quy định trong luật.

Để luật không bị lỗi thời lại không quá chi tiết cứng nhắc khó xoay xở khi tình hình có những thay đổi, cơ quan soạn thảo Dự thảo luật rất cần cân nhắc xem điều luật nào quy định cứng (nghĩa là thực tế chứng minh ít thay đổi), điều luật nào quy định khung và sẽ được hướng dẫn bằng các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để bảo đảm tính linh hoạt khi điều kiện cuộc sống có thay đổi mà chưa lường hết được. Cần tham khảo thực tiễn của các quốc gia trên thế giới ứng xử như thế nào với những vấn đề tương tự mà ngành giáo dục Việt Nam đang vướng mắc để có một cách tiếp cận sáng tạo, hợp quy luật thực tiễn và hiện đại.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.