Giàn giáo tre trong văn hóa Trung Quốc

Hình ảnh giàn giáo tre với các mắt đan cài chặt chẽ khá phổ biến ở các công trình xây dựng Hong Kong (Trung Quốc). Trong tiếng Quảng Đông (Cantonese), giàn giáo tre được gọi là "đáp bằng", hoặc "trúc bằng".

Mô tả giàn giáo tre trong bức tranh "Thanh minh thượng hà đồ". Ảnh: WIKIPEDIA
Mô tả giàn giáo tre trong bức tranh "Thanh minh thượng hà đồ". Ảnh: WIKIPEDIA

Kỹ thuật đáp bằng được ghi chép lại lịch sử tới vài nghìn năm và có những làng nghề hàng trăm năm tuổi. Văn hóa đáp bằng ở Trung Quốc một lần nữa được đưa ra tranh luận sau vụ cháy thảm khốc ở khu phức hợp Wang Fuk Court.

Biểu tượng văn hóa của cộng đồng Hong Kong

Người Trung Quốc cho rằng, lịch sử của giàn giáo tre có từ thời kỳ Tam Hoàng - Ngũ Đế, một thời kỳ cổ xưa trước khi Trung Quốc có nhà nước đầu tiên là nhà Hạ. Theo thần thoại Trung Quốc, người sáng tạo ra kỹ thuật dựng giàn giáo tre là Hữu Sào Thị, một vị vua nằm trong Ngũ Đế. Vị thần này có xuất thân từ các loài chim nên dạy con người cách làm nhà trên cây với giàn tre leo lên để tránh thú dữ. Trát vữa, làm đồ gỗ và dựng giàn giáo tre là ba kỹ thuật xây dựng được người Trung Quốc xếp vào danh mục các di sản phi vật thể lâu đời của họ.

Lý Giới, một kiến trúc gia thời Bắc Tống, trong "Doanh tạo pháp thức" - một cuốn chuyên luận về kỹ thuật xây dựng của Trung Quốc - đã mô tả khá kỹ về cách làm giàn giáo tre. Theo đó, người ta đã chẻ các ống tre thành các dải, bện những dây dài rồi buộc chúng lại thành giá đỡ khi xây dựng. Hình dung về giàn giáo tre rõ ràng hơn trong "Thanh minh thượng hà đồ" của Trương Trạch Đoan, một bức tranh mô tả cảnh sinh hoạt thời Tống ở Biện Kinh (thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam hiện nay), trong đó có một góc vẽ lại cảnh người dân dựng giàn tre và cổng tre trong phố.

Tới thế kỷ 14, các công trình xây dựng ở Trung Quốc đều sử dụng giàn giáo tre. Đặc biệt, sự phát triển của các gánh hát rong Việt kịch vùng Quảng Đông càng khiến những người thợ dựng giàn tre có đất dụng võ. Giàn tre nhẹ, dễ tháo lắp, rất hợp cho các sân khấu lưu động. Đáp bằng vì thế rất phổ biến vùng lưỡng Quảng.

Vùng Mai Lục (Ngô Xuyên, Quảng Đông) đã trở thành một làng nghề đáp bằng nổi tiếng qua hơn 400 năm. Những người thợ đáp bằng Mai Lục mang nghề của mình đi khắp nơi. Dần dần, nghề đáp bằng đã chuyển từ việc xây dựng đơn thuần thành một biểu tượng văn hóa đậm bản sắc địa phương. Giàn giáo của thợ Mai Lục không chỉ nổi tiếng kết cấu chắc chắn, bền, kỹ thuật buộc khéo léo mà còn đẹp mắt. Giai đoạn 1912-1925, riêng Quảng Châu có khoảng hơn 1.000 thợ đáp bằng thuộc hơn 80 công ty dựng giàn giáo. Công ty nổi tiếng nhất là Trần Tường Ký, có đội ngũ thợ nòng cốt đều là người Mai Lục.

Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng Đông, vốn có truyền thống dựng các cổng chào kỳ công trong các sự kiện quan trọng. Có hai sự kiện làm nên tên tuổi thợ Mai Lục thời kỳ Dân quốc. Năm 1920, Toàn quyền Hong Kong, Sir Reginald Edward Stubbs, đã có chuyến thăm chính thức đến Quảng Châu. Những cổng chào dựng nên nhờ kỹ thuật đáp bằng đã khiến ông phải thốt lên: “Trung Quốc có hai ông thầy, một là thầy làm ngà voi, một là thầy dựng lầu”. Ý chỉ nghề chế tác ngà voi và nghề dựng cổng chào tre của Trung Quốc đều là tuyệt kỹ.

Cuối năm 1920, Tôn Trung Sơn trở lại Quảng Châu, tái lập chính phủ quân sự. Trong lễ chào mừng Tôn Trung Sơn tháng 5/1921, thành phố đã làm một loạt các cổng chào ở các trục đường lớn. Thợ Mai Lục của công ty Trần Tường Ký đã dựng giàn tre kết hợp với hơn 300 tấm pano gỗ được chạm khắc sơn son thếp vàng, tạo nên nhiều cổng chào đa mầu sắc.

Kể từ đó, thợ Mai Lục bắt đầu mang các giàn giáo tre vượt biển để tới Hong Kong, Ma Cau. Sau này, khi những chiếc cổng chào, tháp hoa dần mai một ở Trung Quốc đại lục do ảnh hưởng của Đại Cách mạng văn hóa thì thợ đáp bằng lại thỏa sức thể hiện tài nghệ ở hai đặc khu. Và rồi, giàn giáo tre bùng nổ trong cả đời sống văn hóa và xây dựng Hong Kong, Ma Cau suốt thế kỷ 20.

Giàn giáo tre không chỉ là phương tiện xây dựng mà còn là biểu tượng văn hóa của cộng đồng Hong Kong. Chẳng hạn ở lễ hội bánh bao Trường Châu, tháp bánh bao khổng lồ cao hàng chục mét cũng được dựng nên nhờ kỹ thuật giàn giáo tre của thợ đáp bằng. Mặc dù giàn giáo tre phổ biến nhưng mảnh đất Hong Kong nhỏ bé không thể trồng các vùng nguyên liệu lớn. Tre làm giàn giáo đều phải nhập từ Quảng Đông và Quảng Tây.

Trong kỹ thuật truyền thống, người ta dùng tre chẻ thành dải làm dây bện. Tuy nhiên trong thời hiện đại, người ta thay dây buộc bằng dây mây hoặc dây nylon. Khi xây nhà, thợ đáp bằng sẽ lắp các cây tre tầm vông là cột sát tường trước, thêm giằng chéo và ngang để tạo mạng lưới. Sau đó mới liên kết với tòa nhà bằng giá đỡ thép. Kỹ thuật người thợ sẽ quyết định độ chắc chắn của cấu trúc tre, bảo đảm có thể chịu lực và tác động thiên nhiên. Giàn giáo sẽ gồm các thanh tre ngang đường kính khoảng 40 mm và tre vỏ dày làm cột dọc chịu lực có đường kính khoảng 75 mm.

Việc dựng giàn giáo tre cũng có những quy tắc riêng. Chẳng hạn mỗi khi dựng giàn, thợ đáp bồng sẽ phải có lễ cúng tổ nghề Hữu Sào. Mỗi giàn tre không được tái sử dụng quá ba lần. Nguyên tắc đáp bằng cũng là thợ nào dựng thì thợ đó tháo dỡ. Họ luôn dỡ giàn theo thứ tự đã định sẵn. Năm 2017, Hong Kong đưa kỹ thuật đáp bằng vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể. Chính quyền Ma Cau cũng coi đây là một di sản giá trị.

Nâng đỡ những tòa chọc trời

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hong Kong bước vào giai đoạn các công trình xây dựng trăm hoa đua nở. Các tòa nhà cao tầng mọc lên liên tiếp và đương nhiên, thợ đáp bằng vô cùng đắt khách. Các nhà thầu đã dựng các giàn giáo tre cao khoảng hai tầng lầu, bao bọc các khối bê-tông cốt thép cao tầng ở trong.

Tòa nhà chọc trời đầu tiên của Hong Kong là Connaught Centre (sau này là toàn Jardine House), cao 52 tầng, hoàn thành năm 1974, là tòa nhà cao nhất Hong Kong thời điểm đó. Các thợ đáp bằng đảm nhận giàn giáo bên ngoài tòa nhà. Trụ sở Ngân hàng Hong Kong và Thượng Hải (HSBC) cao 44 tầng, được hoàn thành năm 1983, cũng sử dụng giàn giáo tre trong quá trình xây dựng. Ngay cả tòa nhà cao nhất Hong Kong hiện tại là Trung tâm tài chính (IFC) cao 88 tầng, hoàn thành năm 2003, hay dự án mở rộng Trung tâm hội nghị và triển lãm Hong Kong hoàn thành năm 2007, cũng nhờ đến thợ đáp bằng trong giai đoạn đầu tiên.

Khu nhà Wang Fuk Court, nơi vừa xảy ra vụ cháy kinh hoàng khiến hơn 150 người tử vong, hàng trăm người mất tích vừa qua, cũng đang sử dụng giàn tre bọc bên ngoài trong quá trình nâng cấp sửa chữa.

Tre nhẹ hơn nhiều so với thép, ước tính thời gian dựng giàn tre nhanh gấp sáu lần và tháo dỡ nhanh hơn nhiều so giàn kim loại. Giá thành giàn tre thấp hơn, có thể cắt và lắp ráp tại chỗ mà không cần máy móc hạng nặng, cho phép giàn ôm sát những mặt tiền cong hoặc ngóc ngách nhỏ. Tuy nhiên, giàn giáo tre dựng hoàn toàn thủ công, rất khó có chuẩn kỹ thuật cố định. Độ bền của giàn giáo cũng phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Giai đoạn 2018-2022, Hong Kong có 22 tai nạn lao động liên quan giàn giáo tre, chủ yếu là khi xây dựng hoặc tháo dỡ không bảo đảm quy chuẩn.

Ở Trung Quốc đại lục, từ thập niên 90 của thế kỷ 20, người ta đã dần loại bỏ giàn giáo tre khi xây dựng các công trình lớn, chuyển sang giàn giáo kim loại. Tháng 6/2021, Bộ Nhà ở và Kiến thiết Đô thị - Nông thôn Trung Quốc đã cấm sử dụng giàn giáo tre. Thế nhưng ở Hong Kong và Ma Cau, các thợ đáp bằng vẫn là một phần không thể thiếu. Hong Kong yêu cầu các thợ đáp bằng phải học nghề toàn thời gian ít nhất một năm và phải đăng ký với cơ quan quản lý mới được cấp chứng chỉ. Chỉ có khoảng 4.000 thợ đáp bằng có chứng chỉ ở Hong Kong nhưng họ đảm nhận hơn 80% công trình xây dựng tại đây.

Trước khi vụ cháy tại khu Wang Fuk Court xảy ra cũng đã có nhiều tranh cãi về chuyện có nên tiếp tục sử dụng giàn giáo tre trong xây dựng ở Hong Kong hay không. Những bức ảnh sau trận hỏa hoạn ở Wang Fuk Court cho thấy các khung tre vẫn còn nguyên. Các cuộc điều tra sơ bộ về vụ cháy đã "minh oan" cơ bản cho đáp bằng và giàn giáo tre không phải là nguyên nhân khiến vụ cháy lan rộng. Thế nhưng chính quyền Hong Kong cũng vẫn tuyên bố sẽ điều tra toàn diện các giàn giáo tre.

Cộng với việc các thợ đáp bằng ngày một ít, giàn giáo tre truyền thống Hong Kong dường như sẽ phải đối mặt một giai đoạn thật sự khó khăn sắp tới.