Gia tăng giá trị cho trái cây Việt Nam

Hiện có khoảng 20 quốc gia trồng vải và 15 quốc gia trồng nhãn. Trong đó, Trung Quốc với sản lượng hơn hai triệu tấn/năm, Ấn Độ 677.000 tấn/năm, Việt Nam 380.000 tấn/năm, Thái-lan 48.000 tấn/năm và Bangladesh 12.000 tấn/năm. Nếu so về chất lượng và độ thơm ngon, trái cây Việt Nam không thua bất kỳ đối thủ nào, song do chủ yếu xuất quả tươi, bảo quản, chế biến kém nên giá trị thu về chưa tương xứng tiềm năng.

Huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) luôn mong muốn có sản phẩm chế biến từ vải thiều, nhưng đến giờ vẫn chủ yếu là bán sản phẩm tươi. Ảnh: LAM ANH
Huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) luôn mong muốn có sản phẩm chế biến từ vải thiều, nhưng đến giờ vẫn chủ yếu là bán sản phẩm tươi. Ảnh: LAM ANH

Đánh giá về cơ hội của quả vải, nhãn Việt Nam, PGS, TS Nguyễn Quốc Hùng, Viện trưởng Nghiên cứu rau, quả cho biết, so diện tích nhãn, vải của Trung Quốc thì diện tích trồng nhãn, vải của Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ. Tuy nhiên, thời vụ thu hoạch cũng như chất lượng giống của các nước khác nhau, do đó Việt Nam hoàn toàn có cơ hội xuất khẩu các sản phẩm của mình vào các thị trường trên thế giới. Xuất khẩu (XK) quả vải, nhãn Việt Nam hiện vẫn chủ yếu tập trung vào xuất tươi là chính, sản lượng chế biến rất thấp. Sản lượng chế biến chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản lượng.

Từ nhiều năm nay, huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) luôn mong muốn có sản phẩm chế biến từ vải thiều, nhưng đến giờ vẫn chủ yếu là bán sản phẩm tươi và một số ít sấy khô. Theo ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn, khó khăn lớn nhất chính là khâu bảo quản. Trái vải tươi chỉ để được ba ngày, chỉ thị trường Trung Quốc gần về khoảng cách địa lý, thời gian vận chuyển ngắn mới có thể đáp ứng được. XK trái vải đi Nhật Bản, Mỹ và các nước châu Âu, các doanh nghiệp (DN) buộc phải vận chuyển bằng đường hàng không khiến giá thành sản phẩm cao, mặt khác tỷ lệ hao hụt cao, nên lợi nhuận thấp. Giá vải thiều bán sang Mỹ dự kiến khoảng 10 - 12 USD/kg. Trong khi đó, chi phí chiếu xạ mất khoảng gần 1 USD và chi phí vận chuyển 5 USD, tổng cộng là 6 USD, chưa tính chi phí sản xuất, thu hoạch. Vài năm trước đây, huyện Lục Ngạn đã từng được Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch chuyển giao công nghệ bảo quản trái vải để XK sang Australia. Tuy nhiên, các lô vải thiều khi được bảo quản để XK sang thị trường này trong năm 2016 và 2017 vẫn bị hư hỏng nhẹ.

PGS, TS Hoàng Thị Lệ Hằng, Phó Viện trưởng Nghiên cứu rau, quả cho biết, theo phản ánh của những DN XK vải, hiện chất lượng quả vải tươi của Việt Nam được đánh giá tốt nhất so các nước như Ấn Độ, Trung Quốc… Tuy nhiên, quả vải tươi của Việt Nam đang chịu áp lực về phí vận chuyển. Bên cạnh đó, mẫu mã bao bì của quả vải Việt Nam cũng chưa được thiết kế đẹp, bắt mắt như của các nước. Hơn nữa, đặc tính của quả vải, nhãn là nếu không áp dụng bất cứ một công nghệ nào thì chất lượng sẽ suy giảm, đầu tiên là vỏ biến mầu, khô, tiếp đó là hư hỏng bên trong. Quả vải, nhãn muốn bảo quản lâu cần phải bảo quản lạnh, vận chuyển lạnh, chiếu xạ, XK bằng đường hàng không. Chưa kể thời gian di chuyển kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột sẽ làm suy giảm chất lượng sản phẩm, tỷ lệ hư hỏng cao.

Ông Nguyễn Văn Phong, Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của vải, nhãn, chôm chôm hiện nay là 25 - 30%, đôi khi lên tới 50%. Tỷ lệ này giảm một chút, khoảng 11 - 35% đối với các hộ nông dân tham gia HTX. Việc chủ yếu XK tươi, bảo quản chế biến kém đang là nguyên nhân khiến giá trị thu về của quả vải, nhãn còn thấp.

Theo Cục Công thương địa phương (Bộ Công thương), những năm gần đây, DN trong và ngoài nước, nhất là các tập đoàn kinh tế lớn trong nước, đã quan tâm đầu tư mạnh vào lĩnh vực chế biến rau quả. Điển hình như: Vingroup, Tập đoàn TH, Tập đoàn Nafoods, Doveco, Lavifood… đã đầu tư phát triển mạnh cơ sở vật chất chế biến, bảo quản rau quả. Chỉ trong hai năm 2017 - 2018, các DN trên đã đầu tư xây dựng mới sáu nhà máy chế biến rau quả hiện đại với công suất 150.000 tấn sản phẩm/năm, tổng vốn đầu tư 5.300 tỷ đồng. Nhiều công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại được sử dụng như thiết bị đóng gói của Tetra Pak, công nghệ và thiết bị cô đặc có thu hồi hương, công nghệ và thiết bị sấy lạnh, sấy bơm nhiệt…

Tuy nhiên, hiện cả nước mới chỉ có hơn 150 cơ sở chế biến rau, quả quy mô công nghiệp với tổng công suất thiết kế khoảng 1 triệu tấn sản phẩm/năm, thậm chí sản lượng thực tế cũng chỉ đạt hơn 500.000 tấn sản phẩm/năm với tỷ lệ sử dụng công suất thiết kế bình quân là 56,2%. Điều này dẫn đến sản phẩm chế biến từ trái cây đơn giản dưới dạng thô, chất lượng thấp, nguy cơ mất an toàn thực phẩm cao. Khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ chế biến của các nhà máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đặc biệt các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ… Công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với các loại quả tươi cũng là một trong những điểm yếu lớn, gây hạn chế cho việc vận chuyển trái cây đi xa và XK.

Theo Viện trưởng Kinh tế Nông nghiệp hữu cơ Lê Thành, XK rau, quả Việt Nam năm 2018 đã vượt qua con số 3,8 tỷ USD, nhưng thực tế phải thấy rằng khi nói mật độ phải “giải cứu” thì ngành rau, quả là đáng lo nhất, do trái cây đa phần là sản phẩm mang tính thời vụ. Muốn chấm dứt tình trạng này, chỉ có cách thu hút DN đầu tư xây dựng chuỗi sản xuất, áp dụng công nghệ đẩy mạnh chế biến, bảo quản. Hiện nay, một trong những nguyên nhân khiến DN kém mặn mà là do chính sách hỗ trợ trong các văn bản rất nhiều nhưng đi vào ngành rau, quả còn ít.

Trước thực trạng trên, Cục Công thương địa phương khuyến nghị các địa phương cần nâng cao năng lực bảo quản, giảm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng; tăng cường chế biến sâu các sản phẩm quả, gia tăng giá trị sản xuất, mở rộng thị trường, tăng khối lượng và giá trị XK. Để ngành trái cây Việt Nam nâng cao giá trị, cần các DN tham gia chế biến, qua đó đa dạng sản phẩm.