"Đừng quên giá trị thực của điện ảnh"

Chỉ có một phim nhà nước trên tổng số 13 phim dự thi. Quá ít phim hay và quá nhiều phim "nhảm". Giải nhất được trao cho một bộ phim bị coi là nặng yếu tố "thị trường" - điều gần như đi ngược lại với truyền thống của một tổ chức nghề nghiệp... Đằng sau ngần ấy tranh cãi tại giải thưởng Cánh diều vàng 2014 vừa qua là câu hỏi: phải chăng điện ảnh Việt Nam đang rơi vào tình trạng "loạn chuẩn", với những thay đổi và lúng túng từ chính người làm nghề?

"Tèo em" của Charlie Nguyễn, một bộ phim được dàn dựng chuyên nghiệp, mạch lạc, đạt kỷ lục doanh thu mùa phim Tết vừa qua.
"Tèo em" của Charlie Nguyễn, một bộ phim được dàn dựng chuyên nghiệp, mạch lạc, đạt kỷ lục doanh thu mùa phim Tết vừa qua.

Chuyên nghiệp tới đâu?

Với cách lý giải riêng của mình, nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã cho rằng, giải Cánh diều năm nay gặp khó trong khâu lựa chọn. Những phim bị báo chí gọi bằng hai từ "thảm họa" khá nhiều, còn phim xem được thì lại mang mô-típ của phim Mỹ khá rõ. Trong cái khung ấy, Cánh diều vàng được trao cho một bộ phim thuần Việt, dễ hiểu, và vẫn lấy được chút xúc cảm của người xem như "Thần tượng" thì cũng có sự hợp lý thôi.

Còn nếu nói giải năm nay chuyển hướng tôn vinh dòng phim "thị trường" thì không hẳn. Sự thật là những phim được sản xuất trong năm quá ít, và không đủ đời sống để tạo thành những xu hướng riêng, với những giải thưởng có tiêu chí riêng. Bởi thế, năm nào các phim cũng được bỏ cả vào một "giỏ" để chấm, với những tiêu chí luôn biến đổi và khập khiễng.

- Nhưng, cách chấm thi như vậy không có nghĩa là chúng ta không thể phân biệt hai dòng phim nghệ thuật và thị trường bằng những tiêu chí khác, chẳng hạn như khán giả hay giới chuyên môn...?

- Một thời gian dài, chúng ta vẫn hay tự dựng lên hai khái niệm đối lập nhau: phim có doanh thu cao và phim được giải tại các cuộc thi của Nhà nước. Thật lòng thì giới điện ảnh cũng đã có cách nghĩ sòng phẳng hơn trong những năm gần đây rồi. Phim có doanh thu cao không nhất thiết phải được giải, và ngược lại.

Để đánh giá rõ về mỗi dòng phim, người ta phải có những chuẩn mực về chất lượng. Sự chuẩn mực ấy là ranh giới giữa chuyên nghiệp và nghiệp dư.

- Chị có thể nói rõ hơn?

- Tôi xin lấy thí dụ về "Tèo em" của Charlie Nguyễn, vốn đạt kỷ lục về doanh thu vào Tết vừa rồi. Phim để cười, chứ thông điệp nhân văn thì thật lòng không nhiều. Nhưng cách bộ phim được dàn dựng thì lại rất chuyên nghiệp mạch lạc, và không hề buông rơi theo thị hiếu khán giả một cách quá dễ dãi.

Rộng hơn, những phim thị trường ăn khách đều được thực hiện một cách khá chắc chắn và vững tay về chuyên môn. Ngược lại, những bộ phim đầy "lỗi chính tả", không đạt tới một chuẩn mực gì, cũng rất sớm bị bật ra khỏi rạp. Nghĩa là khán giả bây giờ cũng tinh trong khâu giải trí, cho dù với những bộ phim ấy, nhu cầu của họ chỉ là được tới phòng chiếu để cười.

Có những bộ phim đạt doanh thu hiện nay bị chê là "hài nhảm", nhưng sự chặt choe, chắc tay của đạo diễn lại khiến giới phê bình phải thừa nhận rõ ràng. Ngược lại, một số phim của chúng ta được đạo diễn tuyên ngôn là thuộc dòng phim nghệ thuật nhưng lại vẫn mắc rất nhiều lỗi cơ bản ở khâu dàn dựng. Bởi ý tưởng có hay, có sâu sắc đến mấy thì vẫn phải được thể hiện trong bộ phim một cách trọn vẹn và rõ ràng.

Phim Nhà nước: khổ vì sự... ngập ngừng

- Chuyên nghiệp tới đâu, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng các bộ phim thị trường vẫn thiên về nhu cầu giải trí. Trong khi đó, những bộ phim có tính xã hội cao, chuyển tải những thông điệp hoặc bài toán đang được thực tế cuộc sống đặt ra, thì lại thiếu vô cùng. Vấn đề này thuộc về quan niệm khi làm phim hay cách đầu tư cho một nền điện ảnh, theo chị?

- Tôi có thể khẳng định luôn: Ở một nền điện ảnh như Việt Nam, những bộ phim mang theo mình trách nhiệm xã hội, thực hiện bài học giáo dục cho khán giả, thì phải do Nhà nước đầu tư. Điều kiện làm phim và áp lực kinh doanh khiến các hãng phim tư nhân chưa thể mặn mà với dòng phim "có vấn đề" như vậy.

Nói khán giả thờ ơ thì không đúng. Bằng chứng là những bộ phim truyền hình - dù hay dù dở - hướng về thực tế cuộc sống đang diễn ra thì vẫn được người xem quan tâm khá nhiều. Vấn đề là khán giả chấp nhận dòng phim ấy, nhưng lại rất khó để họ bỏ tiền mua vé vào rạp như những bộ phim giải trí khác. Và khi đó, bài toán được chuyển sang cho Nhà nước rồi.

Chúng ta đã từng có những bộ phim tâm lý xã hội rất tốt trong giai đoạn trước. Rồi những năm gần đây, khi nền kinh tế mở ra, ngành tài chính bắt đầu có sự so sánh về đồng vốn đầu tư. Và khi nhìn vào thực tế là tính hữu ích kinh tế của những bộ phim do Nhà nước sản xuất rất thấp, thì sự dè dặt xuất hiện.

Người ta thờ ơ, thậm chí ngập ngừng như muốn buông rơi dòng phim ấy, với một câu hỏi luôn đặt ra: Một bộ phim được Nhà nước đầu tư cả chục tỷ đồng, khi mang ra rạp sẽ bán vé và thu về bao nhiêu?

- Nhưng thực tế, chúng ta vẫn có những bộ phim được Nhà nước đầu tư sản xuất đều đặn, nhất là các dịp kỷ niệm đặc biệt?

- Dòng phim tuyên truyền mà bạn nói chỉ là một phần trong những bộ phim được Nhà nước đầu tư. Và, cái thiếu công bằng là tâm lý gộp tất cả các bộ phim được Nhà nước đầu tư sản xuất vào một mảng, với tâm lý chung là sự dè dặt nửa vời.

Chúng ta vẫn muốn dùng điện ảnh để quảng bá cho truyền thống lịch sử, cho quan điểm xã hội, cho căn cốt văn hóa dân tộc. Nhưng chỉ nhìn vào hiệu quả kinh tế, và đặt trong sự tham chiếu với hiệu quả tức thời trong những lĩnh vực đầu tư khác thì chúng ta lại ngập ngừng. Ngập ngừng nên rất nhiều bộ phim bị cắt giảm chi phí so với đề xuất, rồi rót vốn về quá chậm, để cuối cùng phải cắm cổ thực hiện xong cho kịp thời điểm yêu cầu.

Tất nhiên, câu chuyện ở đây còn có cả lỗi lớn của nghệ sĩ nữa, vì không làm tròn trách nhiệm và cho ra nhiều bộ phim có chất lượng không tốt lắm. Nhưng, cái đáng lo là điện ảnh tư nhân đang vật lộn và chấp nhận sự tự đào thải hằng ngày để đạt tới tầm chuyên nghiệp, trong khi điện ảnh Nhà nước lại đang lúng túng và không biết thực hiện điều ấy thế nào. Muốn giữ được những chức năng ngoài giải trí của điện ảnh thì chúng ta phải giải quyết được sự phát triển lệch lạc thiếu cân bằng ấy.

- Dường như ở đây có cả bài toán về vấn đề thế hệ. Một cách tự nhiên, những đạo diễn trẻ liên tục xuất hiện ở dòng phim tư nhân - trong khi ngần ấy năm, các bộ phim do điện ảnh Nhà nước sản xuất đều vẫn được thực hiện bởi những gương mặt cũ. Và từ khoảng cách ấy, thì tiếng nói, cách nhìn, quan niệm của hai phía lại càng xa nhau dần theo thời gian...?

- Tôi nghĩ, vấn đề này cần có sự đầu tư cơ bản theo thời gian. Quả thật, những nghệ sĩ trong các hãng phim Nhà nước cũng đã có tuổi rồi. Và nói công bằng, những bộ phim của họ rồi cũng phải có lúc lặp lại lối mòn về cách tư duy của một giai đoạn cũ. Trong khi đó, phim thị trường đòi hỏi rất nhiều mảng miếng tư duy với những cách làm rất riêng và hầu như không được dạy tại các trường đào tạo điện ảnh của chúng ta. Bởi thế, các đạo diễn trẻ khi ra trường đều lúng túng với sự lựa chọn của mình.

Chúng ta đừng đổ hết lỗi cho những lý do về thời mở cửa. Tôi nghĩ, những tồn tại đáng buồn ấy đến từ sự thiếu chuẩn bị, và từ cả những thời điểm chúng ta đã quên đi và không chịu hiểu về giá trị thực của điện ảnh nữa rồi.

- Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện!

Nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã

Có thể bạn quan tâm