Phát triển bền vững tạo lợi thế cạnh tranh kinh tế
Cụ thể hóa Chương trình nghị sự 2030, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017), trong đó đã đề ra 17 SDGs với 115 mục tiêu cụ thể. Tiếp đó, Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định 681/QĐ-TTg về lộ trình thực hiện các SDGs Việt Nam (VSDGs) đến năm 2030 và để cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển bền vững. Ngày 25/9/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP để thúc đẩy việc thực hiện các SDGs, trong đó có định hướng các ngành, các cấp và địa phương đến năm 2030. Có thể nói, ở cấp độ quốc gia, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những văn bản cụ thể hóa SDGs, nói cách khác là bản địa hóa các SDGs tại Việt Nam.
Ở cấp địa phương, bắt đầu từ năm 2021, chỉ số phát triển bền vững cấp tỉnh được xây dựng nhằm đánh giá mức độ phát triển của từng địa phương theo các chỉ tiêu thành phần. Bên cạnh đó, nhiều tỉnh, thành phố cũng tiến hành địa phương hóa các SDGs thành các mục tiêu phát triển cụ thể và xác định ưu tiên của địa phương. Thí dụ như thành phố môi trường - thành phố đáng sống của Đà Nẵng, ưu tiên xây dựng nền văn hóa bền vững của Vĩnh Phúc, hay nâng cao chỉ số hạnh phúc của Yên Bái...
Nhìn nhận về những lợi thế của địa phương khi hướng tới phát triển bền vững, TS Nguyễn Phương Bắc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh cho rằng, phát triển bền vững phải được coi như một lợi thế để cạnh tranh về kinh tế. Hiện nay, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI đã tích hợp Chỉ số xanh PCI như là một trong những thành phần quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của địa phương trong thu hút đầu tư.
Lấy thí dụ về lợi thế của Bắc Ninh, địa phương đứng thứ ba toàn quốc về Chỉ số xanh cấp tỉnh, ông Bắc cho biết, mặc dù định hướng là một tỉnh công nghiệp nhưng Bắc Ninh đã rất quan tâm tới sự lựa chọn các nhà đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp sang hướng chuyển đổi xanh và hướng tới có chính sách rõ rệt phát triển các khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị sinh thái hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng xanh hóa. Đồng thời ở góc độ cộng đồng sử dụng bản sắc văn hóa như một yếu tố quan trọng để dẫn dắt hành trình chuyển đổi xanh ở cộng đồng. Nhờ đó, liên tiếp những năm qua, địa phương này trở thành điểm đến của dòng vốn công nghệ cao hàng đầu thế giới như: điện tử, chip bán dẫn, năng lượng.... “Việc hài hòa giữa phát triển kinh tế với tạo ra môi trường sống, làm việc và sản xuất tích cực hơn cho người dân và doanh nghiệp là một trong những yếu tố tạo ra lợi thế cạnh tranh của Bắc Ninh”, TS Nguyễn Phương Bắc khẳng định
TS Nguyễn Văn Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển bền vững vùng (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, ở cấp địa phương, việc cụ thể hóa các mục tiêu phát triển bền vững đã đạt được nhiều thành công. Thí dụ việc chú trọng thu hút các dự án đầu tư mang tính xanh, công nghệ cao, ít ô nhiễm, ít phát thải... đặc biệt là những trung tâm công nghiệp, nơi có nhiều dự án tiêu hao năng lượng, thu hút nhiều nhân công giá rẻ, họ đã biết chọn lọc dự án, loại bỏ danh mục những doanh nghiệp ô nhiễm, nguy cơ ô nhiễm. Đây là tín hiệu rất mừng cho Việt Nam.
“Việc thực thi các hành động mang tính bền vững hoặc cổ vũ cho các phong trào xanh hóa nền kinh tế như kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao hay khu công nghiệp sinh thái... cho thấy sự thay đổi về nhận thức từ ưu tiên chất lượng sống, chất lượng việc làm, môi trường sinh thái chứ không chỉ chú trọng đến các chỉ tiêu kinh tế như trước đây”, TS Hùng cho biết thêm.
![]() |
| Một góc thành phố Đà Nẵng. Ảnh: SONG ANH |
Lúng túng vì thiếu nguồn lực
Mặc dù đã có những chỉ tiêu cụ thể cấp quốc gia, nhưng nhiều chuyên gia đánh giá việc áp dụng ở cấp địa phương còn chậm và chưa hiệu quả. TS Nguyễn Phương Bắc đánh giá, hệ thống chỉ tiêu về phát triển bền vững chưa phân rõ từng cấp mà là chỉ tiêu chung, do đó nó thiếu tính ưu tiên để các địa phương có thể thực thi việc phát triển bền vững. Ngoài ra, hệ thống này được phân bổ cho từng ngành, từng cấp và rất nhiều người tham gia mà không phân biệt rõ chủ thể và các cơ quan phối hợp, đối tượng giám sát việc thực hiện trong hệ thống chính trị. “Liên quan đến những vấn đề mới cần có những mô hình mang tính định hình để các địa phương làm theo. Bên cạnh đó cần có thể chế hóa để phát triển bền vững có hiệu quả hơn trên thực tế”, TS Bắc đề xuất.
Qua khảo sát tại nhiều địa phương trên cả nước, Viện Nghiên cứu phát triển vùng đánh giá còn rất nhiều khó khăn: Sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành chưa ăn ý, thiếu kinh phí dành riêng cho hỗ trợ các địa phương thực hiện phát triển bền vững. Đặc biệt là tình trạng thiếu nhân lực tại các địa phương khi hầu hết đều không có cán bộ chuyên trách thực hiện tính toán, thống kê các số liệu phục vụ cho tỉnh tính toán các chỉ tiêu, chỉ số trong bộ phát triển bền vững của Việt Nam VSDG.
Mặc dù Tổng cục Thống kê đã ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam ở cấp quốc gia, cấp địa phương nhưng còn nhiều chỉ tiêu mới chưa cập nhật khiến nhiều địa phương lúng túng trong việc tính toán, thống kê. Một trong những hạn chế lớn nhất chính là phối hợp giữa các địa phương để thực hiện mục tiêu chung mang tính liên vùng là chưa hiệu quả. “Nếu đề xuất xây dựng một nhà máy xử lý rác thải ở quy mô lớn tại một vùng nào đó thì sẽ bớt đi chi phí, nguồn lực gia tăng hiệu quả nếu các địa phương cùng phối hợp và chia sẻ nguồn lực triển khai... Nhưng hiện tại rất khó để tìm được tiếng nói chung”, TS Nguyễn Văn Hùng lấy thí dụ.
Học tập kinh nghiệm quốc tế
Một trong những giải pháp được các chuyên gia đề xuất trong việc thúc đẩy địa phương hóa phát triển bền vững tại Việt Nam là học tập các mô hình quốc tế. Trong nhiều năm qua, tiếp cận phổ biến nhất đối với việc địa phương hóa các mục tiêu phát triển bền vững là tích hợp các mục tiêu và chỉ tiêu này vào các quy hoạch và xây dựng chính sách cấp quốc gia. Nhiều nước đã thể hiện sự cam kết của mình thông qua việc ký kết các cam kết quốc tế, như thỏa thuận Paris, thông qua việc triển khai các dự án địa phương… nhằm thúc đẩy các mục tiêu cụ thể.
Thành phố New York (Mỹ) đã trở thành thành phố đầu tiên đưa SDGs vào quy hoạch chính sách và hoạt động. Chính quyền thành phố đã thiết lập “One NYC” làm hướng dẫn chiến lược cho việc thực hiện SDGs ở cấp địa phương, từ việc xây dựng các tòa nhà tiết kiệm năng lượng đến việc cung cấp các cơ hội việc làm bền vững.
Thành phố Curitiba (Brazil) đã xây dựng một nền kinh tế xanh nhờ thực hiện các mục tiêu SDGs như tập trung vào mục tiêu SDG 9 (Xây dựng cơ sở hạ tầng bền vững và thúc đẩy sự đổi mới), thành phố đã chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo và thu gom rác tập trung.
Phát triển kinh tế dựa trên khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại thành phố Tel Aviv, Israel cũng đã chọn mục tiêu SDG 9 là chính sách ưu tiên của thành phố. Đô thị này đã phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp nổi bật trên thế giới, tập trung vào việc phát triển các công nghệ sáng tạo cho việc ứng phó với thách thức về môi trường và phát triển năng lượng tái tạo.
Các thí dụ trên cho thấy cách mà các cấp chính quyền trên thế giới đã vận dụng thực hiện các mục tiêu SDGs vào việc xây dựng chính sách và hoạt động quản lý của mình. Việc vận dụng này không chỉ giúp thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững mà còn tạo ra những cơ hội mới cho người dân địa phương như tạo ra việc làm mới, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, qua đó cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Đây là những mô hình mà các địa phương của Việt Nam có thể tham khảo.
