Công nghệ tạo sức bật mới cho nông nghiệp Vĩnh Long

Những năm gần đây, ứng dụng khoa học - công nghệ đã tạo bước chuyển rõ nét cho nông nghiệp Vĩnh Long, từ khâu giống, quy trình canh tác đến chế biến. Sự đổi thay đồng bộ này giúp nâng chất lượng, tăng giá trị thành phẩm, mở cơ hội đưa nông sản địa phương vươn ra thị trường quốc tế.

Nông dân Lê Văn Sấm đầu tư phát triển mô hình trang trại trong nuôi tôm công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Nông dân Lê Văn Sấm đầu tư phát triển mô hình trang trại trong nuôi tôm công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mạnh dạn đầu tư

Tại vùng sản xuất cây giống trọng điểm xã Chợ Lách (tỉnh Vĩnh Long), nhiều cá nhân, đơn vị đã bắt đầu mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ để giúp nâng cao chất lượng. Điển hình như nghề sản xuất cây giống truyền thống hơn trăm năm tuổi đã chuyển dần từ ghép, chiết cành sang cấy phôi, cấy mô, mang lại hiệu quả cao. Một trong số đó có thể kể đến Công ty TNHH Công nghệ sinh học ViGen (xã Chợ Lách) đã đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất cây giống công nghệ cao bằng phương pháp cấy mô để cung ứng cho bà con trong vùng. Ông Nguyễn Văn Sinh, Giám đốc công nghệ Công ty ViGen cho biết: “Thay đổi cách làm mới, dự kiến bình quân mỗi năm công ty sẽ cho ra thị trường khoảng 12 triệu cây giống và hoa kiểng các loại như: mai vàng, cúc mâm xôi, sống đời, tùng kim cương, chuối, kiểng lá, các loại lan…”.

Vùng nuôi tôm nước lợ cũng được nông dân chuyển dần từ nuôi quảng canh, tôm lúa truyền thống sang nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao. Nông dân Lê Văn Sấm (ngụ xã Thạnh Hải, tỉnh Vĩnh Long) đã xây dựng mô hình trang trại nuôi tôm công nghệ cao với diện tích gần 50 ha. Trang trại đầu tư nhiều công nghệ máy móc, thiết bị hỗ trợ như: nhà lưới, máy tạo oxy, phủ bạt đáy ao, cho ăn tự động, máy sụt khí Clo…

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tỉnh Vĩnh Long, đến nay địa phương đang tập trung phát triển nuôi tôm nước lợ tại xã ven biển với diện tích hơn 69 nghìn ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh, ứng dụng công nghệ cao ngày càng được nông dân mở rộng với khoảng 6.000 ha, hiệu quả kinh tế tăng cao rõ rệt.

Động lực tăng trưởng bền vững

Theo Giám đốc Sở NN&MT tỉnh Vĩnh Long Lâm Văn Tân: “Ngành nông nghiệp địa phương đã có nhiều bước tiến quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ số và công nghệ thông minh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Đặc biệt là ứng dụng hệ thống quan trắc nước, không khí, hệ thống giám sát côn trùng thông minh, cảm biến IoT giúp người dân theo dõi một cách khoa học, an toàn cho từng sản phẩm”.

Ngoài ra, ngành nông nghiệp Vĩnh Long còn áp dụng công nghệ tự động hóa như: Tưới nhỏ giọt, nhà màng, nhà lưới, máy bay không người lái để phun thuốc, bón phân… Cơ sở dữ liệu đất đai, giống cây trồng, vật nuôi, mã số vùng trồng, vùng nuôi được số hóa, phục vụ quản lý sản xuất… Đây được coi là chìa khóa để nâng cao giá trị gia tăng, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Quỳnh Thiện đánh giá, hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đã đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Các kết quả nghiên cứu đã tạo ra 15 giống mới, xây dựng 299 mô hình. Hầu hết các kết quả này đã được ứng dụng vào sản xuất, giúp chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh.

Sau hợp nhất, tỉnh Vĩnh Long có thế mạnh về thủy sản, các cây trái đặc sản như dừa và bưởi... Toàn vùng hiện đã có 11 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh. 1.124 tổ chức, cá nhân được cấp phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ. Hiện Vĩnh Long đang tập trung ứng dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế trực tiếp, bền vững.

Ông Sấm chia sẻ: “Trung bình mỗi năm gia đình tôi thu hoạch khoảng 800 tấn tôm, mang về lợi nhuận gần 40 tỷ đồng. Hiện tại, chỉ ứng dụng công nghệ cao mới giúp nghề nuôi tôm phát triển bền vững, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất so với cách nuôi truyền thống như trước đây”.