Chậm cổ phần hóa, thoái vốn do cơ chế
Mới đây, Bộ Tài chính đã có Báo cáo về tình hình thực hiện CPH DNNN, TVNN tại DNNN. Theo đó, tính đến hết tháng 7-2019, có sáu DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị DN là 680 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 615 tỷ đồng; có 9 trong số 62 DN thuộc danh mục ban hành theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thực hiện thoái vốn với giá trị 690 tỷ đồng, thu về 1.587 tỷ đồng; các tập đoàn, tổng công ty, DNNN ngoài danh mục theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg thoái vốn với tổng giá trị 1.540 tỷ đồng, thu về 2.511 tỷ đồng. Điều này cho thấy tốc độ CPH, TVNN tại các DNNN vẫn còn chậm.
Theo Phó trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN Nguyễn Hồng Long, mặc dù tiến độ CPH thời gian qua chậm song chất lượng đã được nâng lên, các phương án CPH, thoái vốn được tiến hành đều bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, đặc biệt là trong những vấn đề liên quan đất đai. Con số kết quả thu về cho ngân sách nhà nước sau thoái vốn đã chứng minh điều này khi giá trị thu về vượt hơn nhiều giá trị sổ sách. Kết quả công tác CPH, thoái vốn đã có tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các DN sau CPH, hầu hết các DNNN sau CPH đều sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Tại hội nghị thông tin chuyên đề, cập nhật kiến thức tình hình triển khai thực hiện NQ 12 Hội nghị T.Ư 5 khóa XII về “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN”, ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế T.Ư đã nêu, có một thực trạng nhiều lúc DNNN mơ được cơ chế tự do, tự quyết của DN tư nhân (DNTN), trong khi DNTN lại mơ được những cơ chế thuận lợi của DNNN. Thực tế, DNNN có những bất cập của DNNN và DNTN cũng có những khó khăn của DNTN. NQ 10 và NQ 12 của T.Ư là để hài hòa cả hai “giấc mơ” có phần trái ngược này.
Theo báo cáo tại hội nghị, về tình hình thực hiện CPH, TVNN tại DNNN, đến hết năm 2017, cả nước còn 583 DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020 sẽ thực hiện cơ cấu lại, Nhà nước chỉ nắm 100% vốn điều lệ tại 103 DN hoạt động trong 11 lĩnh vực. Cũng trong giai đoạn 2017 - 2020, thực hiện thoái vốn khoảng 60.000 tỷ đồng vốn nhà nước tại DN. Sau quá trình CPH, tái cơ cấu DNNN, tính đến hết quý II-2019, mới có 35 trong số 127 DNNN trong danh mục được duyệt đã thực hiện CPH, đạt tỷ lệ 27,5%. Về thoái vốn, trong giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 11-2018, Nhà nước mới thực hiện thoái vốn tại DN được 17.826 tỷ đồng, thu về 155.735 tỷ đồng.
Trưởng Ban Kinh tế T.Ư Nguyễn Văn Bình thẳng thắn đánh giá, CPH DNNN đang chậm lại, tiến độ TVNN không đạt kế hoạch. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của nhiều DNNN hoạt động còn chưa hiệu quả. Một trong những nguyên nhân là vẫn còn nhiều bất cập đối với các DNNN. Thực tế, có hiện tượng tư nhân ngại tham gia góp vốn mua cổ phần DNNN khi CPH do nhiều quy định bất hợp lý đang “trói buộc” các DN này. DNNN có lợi thế, có đặc quyền nhưng cũng có nhiều quy định ràng buộc khiến nhiều lãnh đạo DN bị “trói chân”. Nghị quyết về DNNN ban hành nhiều nhưng khâu thực thi còn hạn chế, vì thế mới dẫn tới tình trạng hai “giấc mơ” cơ chế trái ngược nhau. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần phải làm tốt hơn nữa, tách bạch rõ chức năng giữa sở hữu tài sản nhà nước (SHTSNN) với quản lý nhà nước (QLNN). Trước đây, sở hữu vốn nhà nước do bộ, ngành đứng ra đại diện và QLNN cũng là do các công chức của bộ, ngành đảm nhận. Người ta gọi đó là… “vừa đá bóng vừa thổi còi”.
Theo ông Nguyễn Văn Bình, NQ 12 của T.Ư đã đưa ra giải pháp mạnh mẽ đối với vấn đề này, trong đó yêu cầu tách bạch, phân định rõ chức năng chủ SHTSNN, vốn của Nhà nước với chức năng QLNN đối với mọi loại hình DN, chức năng quản trị kinh doanh của DNNN. Tuy nhiên, việc triển khai trên thực tế còn nhiều vướng mắc, bất cập. Vì vậy, ở DNNN cần làm rõ, tách bạch rõ chức năng SHTSNN với quản lý DN theo hướng thị trường, cạnh tranh. Trong đó, việc bán vốn, CPH cần định giá đúng giá thị trường, ngay cả những DN muốn giữ cũng phải tính đúng, tính đủ.
Cùng quan điểm này, Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) Nguyễn Đình Cung cho rằng, giai đoạn 2007 - 2008, sau “sự cố” Vinashin, Vinalines, chúng ta có xu hướng thắt chặt lại và hành chính hóa hoạt động của DNNN. Vì vậy, DNNN và DNTN đều kêu không được đối xử bình đẳng.

Nhờ có VNPT, hạ tầng viễn thông ở nước ta được xây dựng ngang ngửa các nước phát triển ở châu Á và trên thế giới. Ảnh: CTV
Làm rõ vai trò của từng loại hình DN
Dưới góc độ DN, đại diện một số DNNN cũng đề xuất cần đánh giá rõ vai trò, vị trí của DNNN trong giai đoạn hiện nay.
Theo Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Công nghiệp Cao-su Việt Nam (VRG) Trần Ngọc Thuận, thực tế đánh giá của xã hội đối với DNNN chưa toàn diện, đúng đắn. Điển hình như 12 dự án (DA) yếu kém ngành công thương như “con sâu làm rầu nồi canh”. Không phải DNNN nào cũng vậy. Hay cần đánh giá sự cần thiết của DNNN theo đúng các giai đoạn lịch sử. Việc đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DNNN cũng vậy. Tại một số DA, ở giai đoạn đầu gặp vướng mắc, DNTN không đầu tư. Khi ấy DNNN đi đầu sẽ gặp nhiều khó khăn. Đến khi cơ hội chín muồi, rõ ràng thì DNTN mới vào. Minh chứng như việc VRG đầu tư cao-su ở Tây Bắc gặp nhiều khó khăn, không có cơ chế chính sách thuận lợi gì. Do vậy, cần có sự ghi nhận, phát huy năng lực, sự nhiệt huyết của DN nói chung và cả DNNN nói riêng.
Trưởng Ban Kinh tế T.Ư Nguyễn Văn Bình cho rằng, bên cạnh những DNNN yếu kém, chúng ta có những DN lớn, đi đầu. Trước đây, khi thực hiện DA Cao tốc Hà Nội - Lào Cai, khá nhiều DNTN được mời tham gia, nhiều người được mời khảo sát đều cho rằng “ném tiền qua cửa sổ”, hay làm cho… “ma nó đi”. Tuy nhiên, sau khi xây dựng con đường này xong, hiệu quả kinh tế thấy rõ. Đời sống các địa phương nằm trên trục con đường đi qua khấm khá hơn, đi lại thuận tiện. Đấy là nhiệm vụ và trách nhiệm của DNNN, mà không phải ai cũng thấu hiểu. Hay một lĩnh vực khác là công nghệ viễn thông, nếu không có DNNN thực hiện các hoạt động đầu tư hạ tầng đắt đỏ từ ban đầu, Việt Nam khó có cơ sở hạ tầng viễn thông ngang ngửa các nước phát triển ở châu Á và trên thế giới với giá rẻ như hiện nay. Ở lĩnh vực hàng không, đang có gần chục hãng hàng không đã hoạt động và đang chờ cấp phép. Tuy nhiên, nếu không có Vietnam Airlines đi tiên phong trong những thời kỳ khó khăn ban đầu thì làm sao có cơ hội cho các hãng hàng không tư nhân tham gia như ngày nay?
Còn theo ông Nguyễn Đình Cung, DNNN không được quyền tự chủ, tự do kinh doanh. Muốn có quyền tự chủ kinh doanh, hệ thống quản trị phải thay đổi thì mới đạt được. Tuy nhiên, sự thay đổi đó đầy rủi ro nên nhiều người cho rằng tốt nhất là không làm gì. Trong khi đó, DNNN vẫn được coi là khối tài sản khổng lồ, có thể làm tăng trưởng GDP hai điểm phần trăm nếu sử dụng tốt nguồn lực này.
Ông Nguyễn Văn Bình cũng chỉ rõ, có rất nhiều người vẫn hiểu kinh tế nhà nước (KTNN) phải ôm tất, làm tất mới là chủ đạo. Thực tế không đúng như vậy, chủ đạo là con đường chính chứ không phải là tất cả, là đa số. KTNN cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước khai phá ra những con đường mới để cho cả xã hội cùng đi, để dẫn dắt định hướng cho cả nền kinh tế này phát triển lành mạnh và đúng hướng. DNNN là then chốt, tức là chỉ nắm những lĩnh vực trọng yếu then chốt, quốc phòng - an ninh hoặc những lĩnh vực mà tư nhân không đầu tư mà xã hội cần. NQ 12 đã nêu rõ là DNNN cũng cần phải được đối xử bình đẳng. Cần tách bạch nhiệm vụ của DNNN sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của DNNN sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích. Những nhiệm vụ kinh doanh hàng hóa dịch vụ thông thường phải theo cơ chế cạnh tranh thị trường. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng cung ứng hàng hóa dịch vụ công ích, nếu phải chịu thiệt hại, Nhà nước phải tính đúng, tính đủ các chi phí cho DNNN và có chính sách hỗ trợ để bảo đảm hiệu quả cho DNNN.