Xác định động lực tăng trưởng kinh tế

Động lực tăng trưởng kinh tế (TTKT) chính của Việt Nam là gì? Có người nói là nông nghiệp, có người lại nói là công nghệ thông tin, kinh tế số hay du lịch và dịch vụ… Chọn quá nhiều trọng tâm thì lại giống như gai quả mít và cuối cùng chẳng có gì. Phải chăng do TTKT dựa trên tài nguyên, khoáng sản, chi phí lao động thấp, đầu tư và mở rộng tín dụng không còn phù hợp, thậm chí đem lại nhiều rủi ro. Đã tới lúc cần nhìn nhận lại động lực của TTKT.

Việt Nam nên dựa vào nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Ảnh: SONG ANH
Việt Nam nên dựa vào nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Ảnh: SONG ANH

Theo Viện trưởng Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên, tăng trưởng GDP hằng năm có vẻ tốt nhưng tăng trưởng dài hạn lại có vấn đề. GDP tăng trưởng không tồi nhưng cơ cấu ít thay đổi, nền kinh tế chậm trưởng thành, doanh nghiệp (DN) Việt Nam chậm lớn, khó lớn. Điều lạ lùng trong TTKT là thành tích tăng trưởng bao giờ cũng tốt, đầu năm thấp, cuối năm cao, cơ bản hoàn thành kế hoạch. Tuy nhiên, về dài hạn, tính theo 5 năm, 10 năm thì tốc độ tăng trưởng bình quân lại giảm 1%. Cụ thể, GDP tăng trưởng cao (6,5%/năm) mà nền kinh tế vẫn chậm lớn. Chi phí vốn quá cao. Nợ công tăng 5%/năm, tín dụng tăng 15-18%/năm, trong khi lãi suất, chi phí logistics, chi phí giao dịch cao bậc nhất thế giới. Nguyên nhân là do động lực tăng trưởng cũ đã cạn kiệt, chậm thay mới. Tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng 7-8 năm qua không đạt kết quả do chỉ lo tháo gỡ, chỉnh sửa, nâng cấp để tận khai mô hình cũ, chậm chuyển sang cơ chế thị trường bình thường.

Xét về thực trạng các động cơ TTKT, theo ông Trần Đình Thiên, trong bốn động cơ tăng trưởng của Việt Nam là: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, nông nghiệp và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ có khu vực FDI ăn nên làm ra nhờ tận dụng được những lợi thế của nền kinh tế Việt Nam, ít bị trói buộc bởi các thể chế, chính sách và hạn chế được những tác động tiêu cực. Nếu bỏ khu vực FDI sang một bên và chỉ phân tích ba khu vực còn lại thì bức tranh kinh tế sẽ ít tươi sáng hơn nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do ta, không phải do tác động từ bên ngoài. Việc tồn tại hai khu vực, hai nền kinh tế trong một quốc gia vì độ kết nối, liên thông tương tác giữa khu vực DN trong nước và DN FDI kém. Do vậy, phải cải cách, phải đổi mới lần 2, thay triệt để cơ chế “xin - cho”, bao cấp bằng cơ chế và động lực thị trường.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chia sẻ, DN Việt Nam thừa nhận môi trường kinh doanh có bước cải thiện đáng kể nhưng họ vẫn hết sức sốt ruột vì sự cải thiện này chưa đáp ứng phát triển DN. Chính phủ tháo gỡ khó khăn nhưng chưa đạt được mức cần thiết là thuận lợi hóa thương mại.

Chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch thì cho rằng, vấn đề khó nhất là chúng ta đang phải giải bài toán kép, tăng trưởng cao nhưng phải bền vững, vừa tăng trưởng cao và tái cấu trúc mà không hy sinh cái gì. Điều đó rất khó. Động lực nào để thực hiện điều này? Phải cải cách đồng bộ về thể chế. Đồng bộ là cải cách thể chế kinh tế gắn với cải cách nền hành chính và tài chính công.

Cùng quan điểm này, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nhấn mạnh, muốn tạo động lực TTKT, phải cải cách thể chế. Hiện nay, thể chế vẫn đứng tụt hậu sau năng lực cạnh tranh, hạn chế tiềm năng TTKT. Chưa kể, tình hình tài chính và bội chi ngân sách rất đáng quan ngại, cần có biện pháp cấp bách.

Theo Phó Tổng thư ký Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam Phạm Thị Ngọc Thuỷ, ba năm tới, để tạo ra động lực tăng trưởng mới, không thể chạy theo GDP từng năm một. GDP chỉ là chỉ tiêu định hướng, do vậy cần bổ sung hàng loạt chỉ tiêu khác đánh giá chất lượng tăng trưởng. Đồng thời, cái quan trọng hàng đầu để tạo động lực tăng trưởng là công khai, minh bạch.

Về vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ thẳng thắn, động lực TTKT chính của Việt Nam là cái gì? Có người nói là nông nghiệp, có người lại nói là công nghệ thông tin, kinh tế số hay du lịch và dịch vụ… Chọn quá nhiều trọng tâm thì lại giống như gai quả mít và cuối cùng chẳng có gì. Chưa kể, hiện nay, Việt Nam đang tồn tại sự lệch pha giữa khu vực FDI và DN trong nước. Chúng ta nói phải chọn lọc FDI, chọn FDI có công nghệ cao, thân thiện môi trường, có chuỗi giá trị sẵn sàng kết nối với DN trong nước, làm cho DN trong nước mạnh lên. Nhưng kết nối thế nào để hai khu vực này mạnh lên trong hệ thống kinh tế thống nhất, tránh tình trạng hai khu vực trong một nền kinh tế, hai nền kinh tế trong một quốc gia.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, phát triển nhanh và bền vững là chủ trương rõ ràng trong Đại hội XII của Đảng vừa qua. Chúng ta cần phát triển nhanh, nhanh hơn để rút ngắn khoảng cách giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, để không tụt hậu hơn nữa, nhưng đồng thời phải phát triển bền vững bao trùm (kinh tế, xã hội, môi trường). Phát triển bền vững là chất lượng tăng trưởng. Muốn phát triển nhanh và bền vững phải thay đổi mô hình, tái cơ cấu nền kinh tế. Chuyển đổi từ chiều rộng sang chiều sâu. Động lực tăng trưởng phải dựa vào cái gì, với Việt Nam nên dựa vào nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Nguồn lực cho tăng trưởng, trong nước là quyết định, ngoài nước là quan trọng. Phương thức tăng trưởng thay từ tài nguyên, lao động giá rẻ, năng suất thấp sang năng suất cao. Về chất lượng tăng trưởng, còn thiếu vắng nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng. Chính phủ muốn xác định hệ thống chỉ tiêu để phấn đấu và thực hiện. Đồng thời là căn cứ giám sát điều hành Chính phủ về tăng trưởng, thống nhất nhận thức và hành động.