Kỳ 1: Khơi thông rồi lại... bồi lắng
“Bây giờ nước cạn quá, mùa hè phải đi đò vào chứ tàu không cập được cảng. Trung bình một tháng 5 – 6 hôm nước cạn, chúng tôi phải chuyển hải sản vào bờ bằng đò. Cứ 200 nghìn đồng một chuyến, vừa thêm tiền, vừa thêm công sức…”, anh Lê Văn Tứ, 32 tuổi, chủ một tàu cá từ Thanh Hóa vào cảng cá Cửa Sót chia sẻ.
Đó chỉ là nỗi nhọc nhằn của ngư dân khi tình trạng luồng ra vào cảng bị bồi lắng mạnh. Cảng cá Cửa Sót nằm tại thôn Xuân Phượng (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh), được Nhà nước đầu tư xây dựng và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2007. Nhưng kể từ đó đến nay chỉ mới 2 lần được nạo vét. Có những lúc cát bồi lắng thành bãi rộng như một sân bóng giữa dòng. Luồng ra vào cạn, tàu bè mắc cạn, hỏng chân vịt. Sản lượng và chất lượng hàng hóa vào cảng giảm đi đáng kể.
Chung tình cảnh còn có cảng Xuân Hội (huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Từ năm 2018 cảng bị bồi lắng với tốc độ rất nhanh. Anh Đinh Sỹ Long, Phó Giám đốc cảng cho biết: Đến năm 2021 thì chỉ còn một phần tư phía ngoài là neo tàu được. Cầu tàu 4 nhịp cũng chỉ dùng nửa nhịp phía ngoài. Âu tàu trú tránh bão bên cạnh đó gần như không sử dụng được. Cả một hệ thống cơ sở vật chất trị giá vài trăm tỷ đồng phục vụ nghề cá trở nên tiêu điều vì thiếu tàu cập bến.
Hướng mở từ Thông tư 25
Tình hình đã đến mức gần như tuyệt vọng đối với một số cảng cá khu vực miền trung. Bồi lắng mạnh, kinh phí để nạo vét rất khó khăn. Nhưng đã có lúc người ta gần như không phải lo lắng về vấn đề này. Luồng lạch được nạo vét thường xuyên và Nhà nước không mất một đồng kinh phí. Nhiều năm về trước, cảng Cửa Sót có một thời gian ngắn “thảnh thơi”. Đó là khi doanh nghiệp Hải Hà đã đi đầu trong cách làm mới.
Chứng kiến tốc độ bồi lắng luồng ra vào cảng tăng nhanh, năm 2014, doanh nghiệp chủ động đề nghị huyện và tỉnh cho được làm nạo vét. Anh Lê Tiến Hải, Giám đốc doanh nghiệp Hải Hà, xuất thân là lính hải quân. Quen với sông nước nên anh nắm con nước trong lòng bàn tay. Anh kể về những ngày đầu làm nạo vét và tận thu sản phẩm: Tôi tự bỏ tiền ra mua 2 phao (nổi), nạo vét rất hiệu quả. Cát hút lên bãi của tôi, bán ra ngoài có nộp thuế, xuất hóa đơn đầy đủ.
Tính ra, mỗi năm hoạt động, doanh nghiệp nộp từ 1,2 đến 1,5 tỷ đồng tiền thuế. Thời điểm đó, mỗi khối cát bán ra chịu 24 nghìn đồng của 4 loại thuế, phí: Thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT. Nhà nước vừa không mất tiền nạo vét lại thu được tiền thuế, doanh nghiệp có lãi, đồng thời luồng lạch luôn thông suốt, tàu bè ra vào cảng tấp nập.
Lúc đó, giữa doanh nghiệp với tỉnh chưa có một hợp đồng ký kết nào. Cách làm hiệu quả như một sự thừa nhận và chính quyền tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Cả hai bên có lẽ không biết rằng, cùng thời gian này có sự ra đời của một chủ trương mới, Thông tư 25/2013/TT-BGTVT quy định về trình tự, thủ tục thực hiện nạo vét luồng hàng hải, khu nước, vùng nước trong vùng nước cảng biển kết hợp tận thu sản phẩm, không sử dụng ngân sách nhà nước và quản lý nhà nước về hàng hải đối với hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản trong vùng nước cảng biển và luồng hàng hải. Hay có thể gọi tắt là thông tư hướng dẫn thực hiện xã hội hóa nạo vét, nạo vét không dùng ngân sách nhà nước và có sản phẩm tận thu.
Tính đến ngày 30/9/2014, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đã chấp thuận 22 dự án cho nhà đầu tư thực hiện theo hình thức này. Cụ thể, có 5 dự án đã triển khai; 6 dự án đã được phê duyệt chuẩn tắc, đang hoàn thiện các thủ tục để triển khai thi công; 11 dự án đã chấp thuận chủ trương, đang lập hồ sơ đề xuất thực hiện dự án. Theo tính toán, những dự án thực hiện trong năm 2014 và hoàn thành vào năm 2015 sẽ tiết kiệm được hàng nghìn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Các luồng bảo đảm phục vụ nhu cầu tàu bè ra vào, không những phục vụ cho chính các doanh nghiệp cảng mà còn đem lại lợi ích về an ninh - quốc phòng.
“Làn gió mới” xã hội hóa nạo vét khi ấy kỳ vọng không chỉ giải quyết dứt điểm tình trạng bồi lắng tại các cửa biển, cảng biển mà còn mang trên mình kỳ vọng định hình lại giao thông thủy nội địa. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.200 km, mật độ sông, kênh thuộc loại cao trên thế giới. Tổng chiều dài đường thủy nội địa đang khai thác hơn 17.000 km với 45 tuyến chính. Tính đến năm 2023, thị phần vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy nội địa chiếm 17,83%, lượng vận chuyển hành khách đạt tỷ lệ 5,03% toàn ngành.
Với những lợi thế tự nhiên và nhu cầu phát triển kinh tế, tiềm năng phát triển giao thông thủy nội địa còn quá nhiều. Ít ai biết rằng, có thể đi đường sông từ Hải Phòng lên tới Tuyên Quang. Nhưng tuyến này mới chỉ đáp ứng được tàu trọng tải tối đa 1.000 tấn. Đoạn sông Lô từ Phú Thọ lên tới Tuyên Quang vướng rất nhiều ghềnh đá tự nhiên, khoảng hơn 20 điểm. Nhiều năm nay, vốn ngân sách không đủ chi trả cho việc phá thông các ghềnh đá đó. Tàu thuyền lớn bắt buộc phải chờ thủy điện Na Hang xả nước mới có thể lưu thông. Rất có thể, chỉ bằng phương án xã hội hóa nạo vét, một ngày nào đó tàu container có thể ngược xuôi từ Hải Phòng tới Tuyên Quang. Lợi ích đem lại là khó đong đếm đối với phát triển kinh tế tỉnh Tuyên Quang nói riêng và cả vùng trung du, miền núi Bắc Bộ. Chỉ một tuyến đường thủy, nhưng có thể lại thêm lời giải cho hoạt động thông thương từ miền biển lên miền núi, cho sự liên kết của 2 trong 6 vùng chiến lược.
Ngoài câu chuyện phát triển kinh tế vùng, phát triển giao thông thủy nội địa, việc xã hội hóa nạo vét còn góp phần giảm áp lực lên hệ thống giao thông đường bộ. Ra đến các cửa sông, biển, luồng lạch khơi thông, các tàu container lớn có thể đi sâu hơn vào cảng. Câu chuyện năng lực cạnh tranh của quốc gia được nâng lên đáng kể trong xu thế tàu bè của các doanh nghiệp hàng hải quốc tế trọng tải ngày một lớn…
Trở lại vạch xuất phát
Giữa lúc mọi việc đang tiến hành thuận lợi, xuất hiện dư luận “mập mờ giữa doanh nghiệp xã hội hóa và cát tặc”. Hàng loạt bài báo nêu lên tình trạng các doanh nghiệp xã hội hóa chậm tiến độ, lợi dụng việc được giao nạo vét luồng lạch khai thác cát vô tổ chức, đem bán kiếm những khoản lợi nhuận lớn, gây thất thoát tài nguyên…
Năm 2016, Bộ GTVT tiến hành thanh tra, rà soát tất cả các dự án xã hội hóa nạo vét đã được thông qua. Sau đó một năm, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 325/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình. Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu tạm dừng cấp mới giấy phép các dự án xã hội hóa nạo vét, duy tu các tuyến luồng hàng hải, đường thủy nội địa kết hợp tận thu sản phẩm cát; đồng thời rà soát các dự án xã hội hóa nạo vét luồng hàng hải, luồng đường thủy nội địa. Các dự án cấp bách, đúng quy hoạch, bảo đảm đầy đủ các yêu cầu về quy chuẩn kỹ thuật của tuyến luồng và môi trường được cho phép tiếp tục thực hiện trên cơ sở phối hợp, thống nhất với UBND cấp tỉnh; Chủ tịch UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ nếu để xảy ra vi phạm trong quá trình thực hiện dự án.
Thời điểm này, hầu hết các doanh nghiệp tham gia xã hội hóa nạo vét đều phải dừng hoạt động. Nhưng tất cả vẫn hy vọng đây chỉ là một quãng nghỉ cho hành trình dài phía trước. Đến ngày 28/11/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159/2018/NĐ-CP về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 11/1/2019.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng được các điều kiện hoặc thực hiện nổi đầy đủ các bước trong Nghị định 159. Ngoại trừ một số doanh nghiệp chậm tiến độ, có những doanh nghiệp tham gia xã hội hóa nạo vét từ năm 2014, đang trong quá trình tăng vốn đầu tư để đẩy mạnh dự án thì bị dừng đột ngột.
Anh Lê Tiến Hải, Giám đốc doanh nghiệp Hải Hà than thở: Các thành viên góp tiền mua 4 tàu nạo hút. Tự nhiên không cho làm nữa, cả 4 tàu đắp chiếu một thời gian rồi đem… bán sắt vụn. Chúng tôi đang từ doanh nghiệp ăn nên làm ra trở thành “con nợ”.
Doanh nghiệp đã thế, đời sống của người dân trong vùng cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Đồng chí Phạm Duy Khánh, Phó Chủ tịch UBND xã Thạch Kim (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh) cho biết: “Bồi lắng càng lúc trở nên căng thẳng. Tàu không vào được cảng, 31 kho đông lạnh của địa phương không đủ hàng. Các tàu từ nơi khác cứ thấy nơi nào dễ vào, hậu cần đầy đủ thì họ vào. Người lao động không có việc bỏ đi xuất khẩu lao động nước ngoài”.
Từ cửa biển đi sâu vào các con sông, có tình trạng doanh nghiệp tham gia xã hội hóa nạo vét ra đi, lập tức “cát tặc” đến thế chân. Sông Cổ Chiên đã có thời được xã hội hóa nạo vét. Dự án dừng lại, cát tặc lộng hành dữ dội. Chỉ 6 tháng đầu năm 2023, đã có 43 vụ khai thác cát sông trái phép trên sông Cổ Chiên và sông Hậu bị phát hiện và xử lý. Riêng số tiền phạt hành chính lên tới 2,4 tỷ đồng. Một người dân sinh sống ở ven bờ sông Cổ Chiên đoạn qua xã Hòa Ninh (huyện Long Hồ, Vĩnh Long) cho biết, “cát tặc” hoạt động mạnh từ khoảng 22 giờ đêm đến 4 giờ sáng hôm sau. Phần đất trồng chôm chôm nhà họ bị sạt cuối năm 2022 cũng vì nạn khai thác cát trái phép…
(Còn nữa)