Hầu hết các ngân hàng đã thông báo đến cổ đông về ngày đăng ký cuối cùng quyền tham dự đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) thường niên 2025. “Mùa đại hội” thường rơi vào cuối tháng 3 và tháng 4/2025. Bên cạnh những vấn đề quan trọng như kế hoạch kinh doanh, chiến lược đầu tư hay bổ nhiệm nhân sự cấp cao, một trong những vấn đề được cổ đông quan tâm là kế hoạch chia cổ tức.
“Mưa” cổ tức cho các cổ đông ngân hàng
Theo công bố mới nhất từ các ngân hàng thương mại, nhiều đơn vị đang lên kế hoạch chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ dao động từ 15% đến 35%, mức cao nhất trong nhiều năm qua. Những ngân hàng đáng chú ý trong số này bao gồm VietinBank, Vietcombank, BIDV, MB Bank, VPBank, Nam A Bank, với kế hoạch phát hành hàng nghìn tỷ đồng cổ phiếu thưởng cho cổ đông, tỷ lệ chia cổ tức từ 20% đến 35%.
Cụ thể, ngày 26/2 vừa qua, SHB đã tiến hành giao dịch không hưởng quyền đối với cổ đông để chốt danh sách chi trả cổ tức năm 2023 đợt 2 bằng cổ phiếu, với tỷ lệ 11%. Điều này có nghĩa là cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận thêm 11 cổ phiếu mới. Ngày đăng ký cuối cùng là 27/2.
Với tỷ lệ này, SHB dự kiến phát hành thêm hơn 402,8 triệu cổ phiếu, nâng vốn điều lệ lên gần 40.660 tỷ đồng. Sau khi phát hành, SHB sẽ hoàn tất việc chi trả cổ tức năm 2023 với tổng tỷ lệ 16%, trong đó 5% là cổ tức bằng tiền mặt (đã tạm ứng từ tháng 8/2024) và 11% là cổ tức bằng cổ phiếu.
Đây là bước đi tiếp nối những đợt chia cổ tức thành công trước đó, khi cổ đông SHB đã nhận mức cổ tức cổ phiếu 18% trong năm 2022 và tỷ lệ chia cổ tức trong các năm 2020-2021 lần lượt là 10,5% và 15%. Theo kế hoạch được Đại hội đồng cổ đông thông qua, tỷ lệ cổ tức của ngân hàng này trong năm 2024 dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao là 18%.
Tương tự, VIB cũng lên kế hoạch chia cổ tức trong năm 2025 với tỷ lệ 7% bằng tiền mặt và phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 14%. Ngân hàng này cũng dự kiến phát hành 7,8 triệu cổ phiếu ESOP cho nhân viên (theo tài liệu ĐHĐCĐ thường niên 2025 được công bố vào ngày 28/2).
Sau khi hoàn tất hai phần phát hành trên, vốn điều lệ của VIB sẽ tăng từ hơn 29.791 tỷ đồng lên hơn 34.040 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng vốn là 14,26%. Sau khi hoàn tất chia cổ tức và phát hành cổ phiếu thưởng, nguồn lợi nhuận sau thuế chưa phân phối của VIB còn lại khoảng 140,4 tỷ đồng.
Không nằm ngoài xu thế, ba ngân hàng quốc doanh lớn đã niêm yết gồm Vietcombank, VietinBank và BIDV cũng có kế hoạch chia cổ tức với tỷ lệ cao, chủ yếu bằng cổ phiếu. Cụ thể, HĐQT VietinBank dự kiến sử dụng toàn bộ lợi nhuận còn lại của năm 2023, khoảng hơn 12.500 tỷ đồng, để chia cổ tức bằng cổ phiếu, từ đó nâng cao vốn điều lệ và tạo cơ hội tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2025-2030.
Vietcombank cũng dự kiến phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, với tỷ lệ khoảng 18-20% và huy động thêm vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. BIDV không kém phần tích cực khi lên kế hoạch chia cổ tức khoảng 20% bằng cổ phiếu, đồng thời tăng vốn để đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel III.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 ở mức 16%, dư địa tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng có quy mô lớn, được dự báo sẽ rất cao trong năm nay. Để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu khi tín dụng tăng trưởng mạnh, các ngân hàng sẽ cần có bộ đệm vốn đủ lớn.
Trong bối cảnh đó, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu giúp các ngân hàng tích lũy thêm vốn tự có và góp phần cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR), tạo nền tảng vững chắc để mở rộng khả năng cấp tín dụng trong thời gian tới.
Giá cổ phiếu ngân hàng không còn thấp
Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu với tỷ lệ cao có thể tạo ra rủi ro pha loãng giá cổ phiếu, do lượng cung hàng hóa tăng đột ngột trong khi dòng tiền trên thị trường không đủ mạnh để hấp thụ hết lượng cổ phiếu mới. Điều này đặt ra bài toán cân nhắc cho nhà đầu tư, khi họ phải lựa chọn giữa lợi ích trước mắt từ cổ tức và tiềm năng tăng trưởng dài hạn của ngân hàng.
Chẳng hạn, trong một báo cáo mới phát hành, Công ty chứng khoán VNDirect đã hạ khuyến nghị cổ phiếu của một ngân hàng thương mại có vốn nhà nước từ "Khả quan" xuống "Nắm giữ". Lý do là chỉ số P/B (tỷ lệ giữa giá thị trường và giá trị sổ sách của cổ phiếu) của ngân hàng này hiện đang ở mức 1,5, cao hơn đáng kể so với mục tiêu P/B là 1,26 và mức P/B trung bình của ngành ngân hàng, hiện ở mức 1,3.
Bà Nguyễn Thảo Linh, chuyên viên phân tích của VNDirect cho biết, giá cổ phiếu hiện nay đã phản ánh phần lớn kết quả tài chính ấn tượng của ngân hàng trong năm 2024, cũng như kỳ vọng về tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ nhờ vào đầu tư công trong năm 2025.
Điều này đồng nghĩa những kỳ vọng này đã được tính toán vào giá cổ phiếu, làm giảm khả năng tăng trưởng trong ngắn hạn. Sự kỳ vọng vào mức tăng trưởng tín dụng cao hơn, tỷ lệ nợ xấu thấp hơn và lãi suất phi rủi ro cao hơn đã phần nào tạo ra mức giá không còn thấp so với giá trị thực tế.
Cho biết thêm về những yếu tố chi phối ngành ngân hàng trong năm 2025, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu của MBS nhận định, có 3 yếu tố chính gồm: Tín dụng, biên lợi nhuận ròng (NIM) và chất lượng tài sản. Với mục tiêu tăng trưởng GDP đạt 8%, tín dụng có thể tăng trưởng 16%, nhưng mức độ tăng trưởng sẽ có sự phân hóa giữa các ngân hàng.
Đồng thời, NIM của ngân hàng dự kiến đạt khoảng 4,5%, khi lãi suất đầu vào đi ngang và lãi suất cho vay giảm. Theo đó, những ngân hàng có khả năng giải quyết hiệu quả bài toán đầu vào và đầu ra sẽ có khả năng sinh lời tốt hơn trong bối cảnh lãi suất đi ngang.
Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ nợ xấu vẫn là một vấn đề đáng lo ngại với nhiều ngân hàng. Do đó, thay vì chỉ chú trọng vào thu nhập, nhà đầu tư cần đặc biệt quan tâm đến những ngân hàng có chất lượng tài sản tốt, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao và khả năng kiểm soát rủi ro tốt.
Việc kết thúc Thông tư 02 sẽ tạo áp lực lớn lên các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp, đặc biệt là những ngân hàng như BVBank, PGBank và NCB, khi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của họ đã tăng từ 80% đến 120% trong năm 2024.
Ngoài ra, dù các ngân hàng quy mô nhỏ đã tăng trưởng tín dụng đột biến trong 2 quý cuối năm 2024, nhưng không loại trừ khả năng một phần khoản nợ trong đó có thể được cơ cấu lại từ các ngân hàng khác. Nếu tình hình tài chính của những ngân hàng này không được cải thiện trong giai đoạn tới, nguy cơ nợ xấu phát sinh từ khu vực này sẽ là điều đáng lo ngại.
Ông Lê Hoài Ân, CFA, người sáng lập IFSS và chuyên gia đào tạo, tư vấn hoạt động ngân hàng, đưa ra cảnh báo rằng, dù nhóm ngân hàng thương mại tư nhân đang tích cực trích lập dự phòng, nhưng chất lượng bao phủ nợ xấu của nhóm này vẫn còn nhiều vấn đề. Đặc biệt, có đến 7 trong số 11 ngân hàng trong nhóm này có tỷ lệ bao phủ nợ xấu dưới 50%.