Xây dựng cơ chế hiệu quả thu hút dòng FDI

Dù chưa có đủ bằng chứng để đánh giá tác động cụ thể đến hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng chính sách thu hút dòng vốn này của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ phải cập nhật thêm “dữ liệu đầu vào”. Đó là, tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ nhiều khả năng kéo theo sự thay đổi dòng chảy của vốn đầu tư toàn cầu.
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp Đức (thành viên của Eurocham) cho biết, vẫn duy trì, thậm chí mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. (Nguồn Eurocham)
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp Đức (thành viên của Eurocham) cho biết, vẫn duy trì, thậm chí mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. (Nguồn Eurocham)

Lạc quan nhưng thận trọng

Số liệu mới nhất vừa được công bố, 4 tháng đầu năm 2025, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam, đạt cao nhất trong vòng 5 năm qua (2020 - 2025), ước đạt 6,74 tỷ USD tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, trong tháng 4/2025 - thời điểm Hoa Kỳ công bố quyết định áp thuế đối ứng, tiếp tục có dự án được rót vốn theo kế hoạch đầu tư lớn ở nhiều địa phương, thể hiện cam kết nhất quán của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Ông Bruno Jaspaert, Chủ tịch EuroCham Việt Nam cho biết, phần lớn các doanh nghiệp châu Âu vẫn đang chờ đợi và quan sát trước những biến chuyển trong chính sách thương mại toàn cầu, chưa thực hiện điều chỉnh chiến lược đầu tư hoặc tuyển dụng tại thời điểm này.

Một khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham) tại Việt Nam thực hiện ngay khi Hoa Kỳ thông báo mức thuế đối ứng 46% đối với hàng hóa Việt Nam cho thấy, chưa có thành viên nào thông báo sẽ đóng cửa nhà máy. Nhưng đã có khoảng 25% doanh nghiệp thực hiện khảo sát quan ngại sẽ bị ảnh hưởng giảm doanh thu; 25% doanh nghiệp đánh giá tác động ở mức trung lập, tức là không tốt, cũng không xấu; chỉ gần 10% cho rằng chính sách thuế này có thể mang lại tác động tích cực.

Trước đó, các doanh nghiệp thành viên của EuroCham vẫn tỏ ra lạc quan nhưng đã có sự thận trọng. Trong Báo cáo Chỉ số Niềm tin kinh doanh (BCI) quý I/2025, theo tỷ lệ đánh giá từ cao xuống thấp, các doanh nghiệp cho rằng, môi trường đầu tư của Việt Nam có thể trở nên hấp dẫn hơn trong dài hạn nếu có các giải pháp tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng; tinh giản thủ tục hành chính; nới lỏng quy trình cấp thị thực và giấy phép lao động cho chuyên gia nước ngoài; tăng cường tính minh bạch trong luật pháp và thực thi pháp luật...

Nhiều giải pháp ứng phó

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, khả năng nhà đầu tư ồ ạt rút vốn khỏi Việt Nam là một tình huống khó có thể xảy ra vì sự dịch chuyển dòng FDI không dễ dàng do chi phí cao. Hơn nữa, Việt Nam vẫn có những lợi thế nhất định, đặc biệt là sự ổn định về chính trị và vị thế địa lý thuận lợi, chi phí nhân công rẻ… Song, Việt Nam vẫn đứng trước thách thức không nhỏ nếu muốn tiếp tục giữ chân các nhà đầu tư và thu hút dòng FDI chất lượng cao như định hướng chiến lược đã đề ra cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Bà Phí Thị Hương Nga, Trưởng ban Thống kê Công nghiệp-Xây dựng, Cục Thống kê nhận định, Việt Nam cần tiếp tục duy trì tính hấp dẫn thông qua nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, tăng cường ưu đãi thu hút FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao, bền vững...

Là đơn vị tư vấn đầu tư và đào tạo cho nhiều doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghiệp, Luật sư Nguyễn Hồng Chung, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên chi hội Tài Chính khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA) chỉ ra, yếu tố cốt lõi trong cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương đang chuyển dần sang nguồn nhân lực, cụ thể là chất lượng, số lượng và khả năng đáp ứng linh hoạt thay vì dựa trên hạ tầng, chi phí đất hay chính sách ưu đãi. “Giải pháp cho nâng cao chất lượng nhân lực chính là cơ chế “đặt hàng đào tạo” giữa doanh nghiệp và nhà trường; xây dựng “Trung tâm Điều phối cung-cầu lao động” của các địa phương dưới hình thức phần mềm quản lý cơ hội việc làm, kết nối cung cầu lao động có thể là một phần trong hệ thống quản lý và xúc tiến đầu tư của tỉnh….”, luật sư Nguyễn Hồng Chung nhìn nhận.

Từ năm 2025, pháp luật về đầu tư của Việt Nam có các chính sách mới hướng đến thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao, như: quy định “luồng xanh” với thủ tục đầu tư đặc biệt; thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư nhằm ổn định môi trường đầu tư, bảo đảm sức cạnh tranh và hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn đa quốc gia vào các lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư trong bối cảnh áp thuế tối thiểu toàn cầu. Tại Công điện số 47/CĐ-TTg ngày 22/4/2025 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp chặt chẽ, quyết liệt với các bộ, ngành, địa phương xây dựng cơ chế hiệu quả thu hút FDI có chọn lọc. Tập trung xúc tiến, thu hút các dự án FDI có quy mô lớn, công nghệ cao, giữ sạch môi trường; kịp thời nắm bắt, xử lý khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp FDI, nhất là cắt giảm thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ các dự án tại Việt Nam. Thủ tướng cũng yêu cầu ngay trong tháng 5 này, hoàn thành xây dựng “Cổng một cửa đầu tư quốc gia” và xây dựng “Cổng một cửa đầu tư cấp tỉnh” sau khi thành lập tỉnh mới

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.