Việt Nam đã sẵn sàng cho thị trường tài sản số?

Việc Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về ứng dụng và phát triển công nghệ chuỗi khối (blockchain) đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, cùng với đề xuất thí điểm sàn giao dịch tài sản mã hóa, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế số. Tuy nhiên, hành trình phát triển thị trường tài sản số còn đối mặt nhiều thách thức, đòi hỏi sự đồng bộ trong xây dựng khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý, vận hành thị trường.
Các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sẽ có địa chỉ hợp pháp để giao dịch, đầu tư, mua bán tiền số thông qua các sàn thí điểm do doanh nghiệp được cấp phép tổ chức.
Các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sẽ có địa chỉ hợp pháp để giao dịch, đầu tư, mua bán tiền số thông qua các sàn thí điểm do doanh nghiệp được cấp phép tổ chức.

"Quốc hội và các cơ quan của Chính phủ cần sớm thể chế hóa, cụ thể hóa việc quản lý đồng tiền kỹ thuật số, nghiên cứu áp dụng cơ chế thí điểm có kiểm soát để thành lập “sàn giao dịch” cho hoạt động này. Cần mạnh dạn áp dụng khung pháp chế chuyên biệt, không để chậm chân, không để mất cơ hội, không tạo khoảng cách hoặc khu biệt với các hình thái tài chính mới, cũng như những phương thức giao dịch hiện đại”.

Tổng Bí thư Tô Lâm, phát biểu tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, chiều 24/2/2025.

Trong kỷ nguyên kinh tế số, tài sản số đang trở thành xu hướng phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu. Theo báo cáo của MarketsandMarkets, quy mô thị trường tài sản kỹ thuật số toàn cầu được dự báo đạt 8.050 tỷ USD vào năm 2027, với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) đạt 61,5% giai đoạn 2022-2027.

Thị trường tài sản số: Xu thế tất yếu

Khi mới xuất hiện, các loại tiền như Bitcoin hay Ethereum… được biết đến qua khái niệm “tiền ảo”, nhưng thuật ngữ này dễ bị liên tưởng đến các vụ lừa đảo. Chính vì thế, hiện nay, các từ như “tiền số - crypto” hay “tiền kỹ thuật số” đang được dùng để định danh dạng tiền tồn tại dưới dạng kỹ thuật số.

Tại Việt Nam, tài sản số được xem là lĩnh vực tiềm năng, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Nghị định số 52/2024/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt có định nghĩa “tiền điện tử” là giá trị tiền đồng Việt Nam (VND) lưu trữ trên phương tiện điện tử, nhưng không công nhận các loại tiền mã hóa kể trên là phương tiện thanh toán hợp pháp. Theo đó, tiền số có thể chia thành hai loại chính. Thứ nhất, đồng tiền số quốc gia do Nhà nước phát hành, quản lý và được Nhà nước bảo lãnh, bảo đảm sự ổn định. Thứ hai, đồng tiền số không do Nhà nước phát hành, không được coi là tiền tệ chính thức mà giống như một loại hàng hóa có giá trị phụ thuộc hoàn toàn vào cung-cầu trên thị trường hoặc sự tham gia định giá, tạo ra giá trị của các quỹ đầu tư. Song, giá đồng tiền số này thường biến động.

Hiện thị trường tiền số đang được vận hành qua các sàn giao dịch tài sản mã hóa (crypto assets) tại Việt Nam có sự tham gia của đông đảo người sở hữu, đầu tư, trao đổi các loại tiền số. Theo Triple-A, công ty fintech có trụ sở tại Singapore, chuyên cung cấp các giải pháp thanh toán bằng tiền số và tài sản kỹ thuật số cho doanh nghiệp trên toàn cầu, tính đến năm 2024, có khoảng 17 triệu người Việt Nam sở hữu ví điện tử liên quan đến tiền số, tương đương 17% dân số 100 triệu người. Đây là con số cao hơn mức trung bình thế giới (6-6,5%), đưa Việt Nam vào nhóm dẫn đầu về tỷ lệ người dùng tiền số.

Còn theo báo cáo chỉ số tiếp cận đồng tiền số toàn cầu năm 2024 - “Global Crypto Adoption Index 2024” của Chainalysis, một công ty phân tích blockchain của Mỹ có trụ sở tại New York, Việt Nam xếp thứ 5 toàn cầu về sở hữu tiền số. Các quốc gia trong tốp 5 lần lượt là: Ấn Độ, Nigeria, Indonesia, Hoa Kỳ và Việt Nam. Đáng chú ý, dòng tiền điện tử và tài sản mã hóa đổ vào Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 7/2022 đến tháng 6/2023 đạt khoảng 120 tỷ USD. Cũng trong khoảng thời gian này, các nhà đầu tư Việt Nam thu về lợi nhuận gần 1,18 tỷ USD từ các khoản đầu tư tài sản mã hóa, đưa Việt Nam đứng thứ ba toàn cầu về lợi nhuận từ lĩnh vực này, chỉ sau Hoa Kỳ (9,36 tỷ USD) và Anh (1,39 tỷ USD). Đây là minh chứng cho việc Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để triển khai hội nhập vào nền kinh tế số toàn cầu.

Tại Việt Nam, có đến 41% số người trả lời khảo sát có sở hữu tiền số, tài sản mã hóa. (Nguồn Chainalysis)
Tại Việt Nam, có đến 41% số người trả lời khảo sát có sở hữu tiền số, tài sản mã hóa. (Nguồn Chainalysis)

“Số lượng đông nhưng chất lượng chưa cao”

Mặc dù tiềm năng lớn, thị trường tài sản số tại Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều rủi ro do thiếu hành lang pháp lý rõ ràng. Các hoạt động đầu tư, mua bán tài sản số hiện nay chủ yếu diễn ra trên các nền tảng quốc tế, ngoài sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước, tiềm ẩn nguy cơ rửa tiền, lừa đảo, thất thoát tài sản.

Mặc dù tài sản mã hóa không được công nhận là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam, nhưng việc sở hữu và giao dịch các loại tài sản này không bị cấm. Hiện, Việt Nam chưa có khung pháp lý cụ thể cho phép hoặc điều chỉnh việc mở tài khoản và giao dịch tài sản mã hóa trên các sàn quốc tế.

Mặt khác, cũng vì Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số, nên Tập đoàn Sky Mavis, một trong bốn kỳ lân công nghệ “tỷ đô” thuần Việt Nam có hệ sinh thái game rất đa dạng và tiềm năng đã chọn Singapore làm điểm đến. Tiếc thay, đây không phải là trường hợp duy nhất.

Từ thực trạng này, ông Nguyễn Đình Thắng, Chủ tịch Câu lạc bộ VINA Fintech, kiêm Chủ tịch Trung tâm Quản lý tài sản số đã nêu ra hai vấn đề chính yếu mà Việt Nam phải giải quyết được: Đó là, tính pháp lý và hiệu quả kinh tế của việc giao dịch tài sản mã hóa. “Nhà nước cần khuyến khích dòng tiền số chảy vào kinh tế một cách hiệu quả, vừa để bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư, vừa quản lý hiệu quả thị trường này để biến tiềm năng thành lợi ích bền vững trong kỷ nguyên số”, ông Nguyễn Đình Thắng nhấn mạnh.

Chủ động kiến tạo “sân chơi” hợp pháp

Nhận thức rõ cơ hội và những thách thức từ thị trường tài sản số, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển công nghệ blockchain và nghiên cứu thí điểm thành lập sàn giao dịch tài sản số trong nước. Một đề án về cơ chế thí điểm có kiểm soát (sandbox), cũng được Bộ Tài chính trình Chính phủ với mục tiêu vừa tạo môi trường thử nghiệm an toàn, vừa chuẩn bị khung pháp lý phù hợp với thực tiễn và xu hướng quốc tế.

Đề án thí điểm sẽ chỉ cho phép những đơn vị, doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện nghiêm ngặt tổ chức sàn giao dịch tài sản số. Các nhà đầu tư, tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sẽ có địa chỉ hợp pháp để giao dịch, đầu tư hoặc mua bán tiền số thông qua các sàn thí điểm do doanh nghiệp được cấp phép tổ chức. Không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, quyết định cho phép thí điểm còn thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân và doanh nghiệp, đồng thời ngăn chặn hoạt động bất hợp pháp liên quan đến tài sản số.

Hiện nay, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đã được đưa ra xem xét tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa XV, dự kiến sẽ được Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp thứ 9 diễn ra vào tháng 5/2025 này. Những nỗ lực trong tạo dựng nền tảng pháp lý ban đầu vững chắc, sẽ tạo động lực lớn cho ngành công nghiệp blockchain Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững trong tương lai.

Theo đánh giá của ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam (VBA), việc luật hóa tiền số, tài sản mã hóa là một trong những nỗ lực thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực này.

Tiến bước nhưng thận trọng

Theo các chuyên gia, để thị trường tài sản số phát triển lành mạnh, cần đồng bộ nhiều giải pháp, từ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao năng lực giám sát, quản lý rủi ro đến đào tạo nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech), blockchain. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về tài sản số, những cơ hội và rủi ro đi kèm, cũng cần được đẩy mạnh. Chỉ khi nhà đầu tư hiểu rõ bản chất tài sản số và môi trường pháp lý vận hành minh bạch, thị trường mới có thể vận hành ổn định, góp phần thúc đẩy kinh tế số phát triển bền vững.

Hơn nữa, để duy trì an toàn trong việc triển khai blockchain trên diện rộng, các doanh nghiệp phải đầu tư vào các giải pháp bảo mật, quản lý rủi ro, và bảo đảm tính ổn định. Đây đều là những thách thức không nhỏ. Lời giải cho vấn đề này, theo ông Phan Đức Trung, chính là sớm hình thành hệ sinh thái blockchain toàn diện, đồng bộ trên nền tảng blockchain “Make in Việt Nam” chất lượng cao. Trong đó, các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu và các cơ quan quản lý có thể liên kết chặt chẽ với nhau, thúc đẩy các sáng kiến đổi mới, tạo môi trường hợp tác tích cực giữa các bên, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn ở phạm vi toàn cầu trong ngành blockchain, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên công nghệ số.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Trần Huyền Dinh - CEO Công ty AlphaTrue nhìn nhận, lĩnh vực tài sản mã hóa là lĩnh vực khá đặc thù, có khả năng thu hút rất nhiều vốn đầu tư từ các cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Song muốn thúc đẩy dòng vốn FDI, Việt Nam cần xây dựng hệ thống các quy định đồng bộ với các chuẩn mực quốc tế.

Chia sẻ quan điểm này, TS Wayne Huang, đồng Sáng lập và là CEO của XREX, đơn vị tư vấn dịch vụ theo dõi phòng chống rửa tiền cho cơ quan quản lý Đài Loan (Trung Quốc) và Singapore, đánh giá, Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn để bứt phá trên thị trường tài chính phi tập trung nhờ mức độ chấp nhận và sự phổ biến của tài sản mã hóa trong cộng đồng người Việt Nam. Khi được luật định rõ ràng, thị trường tài sản mã hóa sẽ được tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ.

Thị trường tài sản số sẽ là một phần tất yếu của nền kinh tế số. Việt Nam cần chủ động kiến tạo sân chơi hợp pháp, vững bước theo xu thế toàn cầu nhưng cũng phải đủ thận trọng để bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền lợi của người dân. Định hướng đúng đắn, khung pháp lý vững chắc và sự đồng hành chủ động giữa Nhà nước và doanh nghiệp chính là nền tảng để thị trường tài sản số Việt Nam phát triển lành mạnh.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.