Vì nước sạch chính là tương lai

Ngày Lương thực Thế giới năm nay, 16/10/2023, có chủ đề: "Nước là sự sống, nước là thực phẩm. Không để ai bị bỏ lại phía sau" (Water is life, water is food. Leave no one behind).
Đàn dê của người dân kiếm ăn trên lòng hồ Phước Trung (huyện Bác Ái, Ninh Thuận) đã cạn trơ đáy. Ảnh: HIỂU MINH
Đàn dê của người dân kiếm ăn trên lòng hồ Phước Trung (huyện Bác Ái, Ninh Thuận) đã cạn trơ đáy. Ảnh: HIỂU MINH

ĐẾN đầu tháng 11 này, vẫn luôn có những số liệu nhói lòng, khi bạn lướt theo dòng các diễn biến thời sự quốc tế. Ở dải Gaza, ngày 31/10, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) cảnh báo: Hàng nghìn trẻ em đã thiệt mạng vì bom đạn, nhưng sẽ còn nhiều em nữa có nguy cơ phải rời bỏ cuộc sống vì thiếu nước sạch, nhất là với nhóm trẻ sơ sinh. Tại mảnh đất đau thương ấy, nguồn cung nước sạch đã chỉ còn lại khoảng 5%, so với trước khi các cuộc giao tranh bùng nổ.

Trước đó một ngày, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres thông báo: 30 năm qua, những ngọn núi nghìn năm tuyết phủ ở Nepal, dưới chân "nóc nhà thế giới Himalaya", đã mất gần một phần ba lượng băng. Hệ quả của nó là gì? Là nước biển dâng. Là xâm nhập mặn. Là sự suy thoái nguồn nước ngọt cũng như sự hủy hoại các sinh quyển. Là sự thiếu hụt lương thực. Là nạn đói. Là bệnh tật. Là những đoàn người di cư tìm cả "miếng ăn" lẫn "nước uống" theo nghĩa đen.

Đây chính là những hình dung u tối gắn với viễn cảnh mà hồi tháng 8, Viện Tài nguyên Thế giới (WRI) đã một lần nữa khẳng định: "Thế giới đang đối mặt một cuộc khủng hoảng nước sạch chưa từng có, và nó đang càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn, khi đi kèm các hệ lụy của quá trình biến đổi khí hậu". Theo WRI, khoảng một nửa dân số thế giới đang đối mặt tình trạng "căng thẳng cao về nước sạch" trong ít nhất một tháng mỗi năm, và dự kiến tình trạng này sẽ ngày càng trở nên tồi tệ hơn.

Cuối tháng 9, Chính phủ Peru đã buộc phải ban bố tình trạng khẩn cấp tại 544 khu vực trong vòng 60 ngày, nhằm ứng phó nguy cơ thiếu nước. Trong khi đó, người dân Uruguay chật vật tìm nước uống khi phải hứng chịu đợt hạn hán tồi tệ nhất trong hơn 70 năm. Tình trạng khan hiếm nước cũng ảnh hưởng đến 11% dân số Liên minh châu Âu (EU) trong mùa hè vừa qua. Tại khu vực Nam Á, hơn 74% dân số phải sống trong cảnh thiếu nước nghiêm trọng, trong khi ở Trung Đông và Bắc Phi, con số này là 83%.

NHƯ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO) khẳng định: Tài nguyên nước là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Trung bình một ngày, mỗi người cần uống từ 2-4 lít nước; và để làm ra số lương thực cần dùng cho mỗi con người trong mỗi ngày phải mất từ 2.000-5.000 lít nước. Bảo vệ an ninh nguồn nước, hay nói ngắn gọn là "gìn giữ tài nguyên nước", vì vậy, chính là trọng tâm để các quốc gia trên thế giới đạt những mục tiêu trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững và các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs).

Trên thực tế, các chính phủ đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải bảo đảm việc tiếp cận nước công bằng cho mọi người dân, cũng như bảo vệ bền vững nguồn tài nguyên quý giá này. Trong vòng 20 năm qua, Trái đất đã mất khoảng một phần năm lượng nước ngọt sẵn có, và nếu không hành động ngay, tỷ lệ ấy sẽ là một phần ba, vào năm 2050.

Nước bao phủ khoảng 71% bề mặt Trái đất, nhưng chỉ khoảng 2,5% trong số đó là nước ngọt, thích hợp để uống cũng như sử dụng trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp (chiếm tới 72% lượng nước ngọt được sử dụng toàn cầu).

Bản đồ dự báo phân bổ nước của WRI thể hiện rõ: 60% số cây trồng cần tưới tiêu đang bị đe dọa bởi tình trạng căng thẳng về nước ở mức "cực kỳ cao", nhiều hồ chứa nước ngọt, sông suối trên thế giới đang dần cạn kiệt, nguồn nước ngầm đang suy giảm ở tốc độ rất nhanh.

Trong khi đó, nước ngọt đang bị hoang phí. Cả khối lượng và chất lượng nước lại cũng đều đang suy giảm nhanh chóng do quản lý kém, khai thác nước ngầm quá mức, ô nhiễm và biến đổi khí hậu trong nhiều thập niên qua, song song đà tăng dân số toàn cầu. Sự cạnh tranh để giành nguồn tài nguyên vô giá này ngày càng gia tăng. Cùng đó, theo hãng tin Bloomberg, giao dịch buôn bán nước sạch lại đang trở thành một ngành kinh doanh đầy triển vọng.

Vấn đề là, hơn 80% lượng nước được thải ra môi trường không được xử lý hoặc tái sử dụng. Gần một tỷ tấn thực phẩm (nghĩa là 17% tổng số thực phẩm có sẵn cho người tiêu dùng trên toàn thế giới) bị vứt bỏ mỗi năm, cũng chính là sự lãng phí các nguồn tài nguyên quý giá, tiêu biểu là nước, được sử dụng để sản xuất ra chúng.

Thay đổi nhận thức, từ cá nhân đến các định chế quản trị vĩ mô, như vậy, chính là điểm mấu chốt đầu tiên để thay đổi thực trạng về bảo vệ an ninh nguồn nước hiện tại. Như Tổng Giám đốc FAO Khuất Đông Ngọc nhấn mạnh: Tất cả chúng ta phải ngừng coi nước là tài nguyên vô hạn, và trọng tâm nhằm giải quyết những thách thức chồng chéo trước mắt phải là những kế hoạch phối hợp cấp quốc gia và khu vực.

ĐÓ cũng chính là những thách thức cơ bản được khẳng định ở cấp cao nhất, thông qua Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Kết luận chỉ rõ: "Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đời sống, sinh hoạt của người dân". Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại một số hạn chế, yếu kém.

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường: Việt Nam có 3.450 sông, suối, chiều dài từ 10 km trở lên nằm trong 108 lưu vực với 331.000 km2 lưu vực nằm trong lãnh thổ nước ta (chiếm 28,3% tổng diện tích của 108 lưu vực). Tổng lượng dòng chảy trung bình nhiều năm của các sông vào khoảng 830-840 tỷ m3. Cả nước có hơn 7.160 hồ chứa thủy lợi, với tổng dung tích ước tính khoảng 70 tỷ m3. Nguồn nước ngầm có trữ lượng khoảng 189,3 triệu m3/ngày đêm, tiềm năng có thể khai thác trung bình khoảng 61,2 triệu m3/ngày đêm. Lượng mưa trung bình năm của Việt Nam khoảng 1.940-1.960mm (tương đương 640 tỷ m3/năm), nằm trong số quốc gia có lượng mưa lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, ngành tài nguyên cũng nhấn mạnh, nguồn nước mặt của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nước ngoại sinh. Hằng năm, các sông, suối xuyên biên giới chuyển vào nước ta khoảng 520 tỷ m3 nước, chiếm khoảng 63% tổng lượng nước mặt của Việt Nam. Nguồn nước nội sinh của Việt Nam chỉ đạt 4.200 m3/người/năm, thấp so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm.

Phát biểu ý kiến tại hội thảo "An ninh và mất an ninh nguồn nước: tái thiết sự chung sống hòa bình với khoa học", tổ chức ngày 11/9 tại Bình Định, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết thêm: Trong vòng 50 năm qua, nhu cầu nước của Việt Nam đã tăng gấp ba lần.

Nhưng không chỉ vậy, việc sử dụng nước ở Việt Nam còn kém hiệu quả, lãng phí. Tổng lượng nước sử dụng cho nông nghiệp chiếm hơn 80%, nhưng mỗi đơn vị m3 nước chỉ tạo ra 2,37 USD GDP, trong khi mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD (số liệu từ Ngân hàng Thế giới).

Cùng với đó, nhiều vấn đề đe dọa an ninh nguồn nước ở nước ta xuất phát từ chính những nguyên nhân chủ quan. Đó là tình trạng ô nhiễm nguồn nước do xả thải bừa bãi không qua xử lý vào sông, suối, kênh, rạch; hoặc chôn lấp rác thải không đúng quy chuẩn, do khai thác khoáng sản, do sử dụng hóa chất bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đó là tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ nguồn nước làm biến đổi dòng chảy, suy giảm diện tích đất rừng-nguồn sinh thủy...

BẠN tôi, một đạo diễn, khi thực hiện một bộ phim tài liệu về lực lượng nữ Thanh niên Xung phong trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từng được nghe những câu chuyện trần trụi, khốc liệt, đau đớn, nhưng cực kỳ chân thực. Như là, phần thưởng cho các nữ Thanh niên Xung phong, y, bác sĩ hay văn công ở hỏa tuyến có lúc đơn giản chỉ là một xô nước sạch. Khi đến tháng, nỗi thèm muốn có nước sạch ở vài binh trạm lớn đến nỗi hồi tưởng lại, các bà, các cô vẫn đùa rằng họ sẵn sàng "yêu bất cứ ai mang nước sạch đến cho mình". Nếu không có ai, họ sẽ phải đi, vừa đi vừa ngã, suốt vài cây số luồn rừng, để xách được nước về. Có người vấp mìn, không về nữa. Có người về đến nơi, nước đã sánh ra, chỉ còn một chút dưới đáy xô. "Thiên đường hạnh phúc" của họ là tìm được một dòng suối, để ngâm mình xuống, thật lâu, cho dòng nước cuốn đi mọi mệt mỏi bức bối…

Chiến tranh lùi xa, thì đến thời bao cấp. Nước sạch không còn quý như máu nữa, nhưng ngay ở Thủ đô Hà Nội, cũng có biết bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu con người biết mặt nhớ tên nhau nhờ đứng xếp hàng ở các vòi nước công cộng, thậm chí là vào rạng sáng hay nửa đêm. Và cũng mới mấy năm gần đây thôi, những ánh mắt tuyệt vọng của bà con trồng thanh long tại Ninh Thuận, khi không có cách nào cứu thành quả lao động của mình dưới trời nắng lửa, vẫn còn như đau đáu.

Tương lai, bằng mọi giá, không thể là sự lặp lại những nỗi ám ảnh ấy từ quá khứ…

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.