UNCLOS tạo cơ sở để chúng ta vững tin phát triển

Trong cuộc trao đổi với phóng viên Nhân Dân cuối tuần, chuyên gia uy tín về biển và đại dương, PGS, TS Nguyễn Chu Hồi nhận định: Ở thời điểm ra đời, UNCLOS là một "hiện tượng trong đời sống pháp luật của nhân loại". UNCLOS đã trao cho Việt Nam quyền tự chủ, trên cơ sở đó chủ động lập kế hoạch khai thác tài nguyên biển, cân bằng được quyền và lợi ích quốc gia.
Tàu đánh bắt cá ngừ đại dương cập cảng Hòn Rớ (TP Nha Trang- Khánh Hòa). Ảnh: Nguyễn Dũng
Tàu đánh bắt cá ngừ đại dương cập cảng Hòn Rớ (TP Nha Trang- Khánh Hòa). Ảnh: Nguyễn Dũng

- Xin ông cho biết, sau 40 năm mở ký, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) đã phát huy tác dụng như thế nào?

- về giải quyết các tranh chấp biển, UNCLOS đã giúp giải quyết được khoảng gần một phần hai trong tổng số 500 vùng biển chồng lấn. Với 168 thành viên, chưa kể nhiều quốc đảo và vùng lãnh thổ không là thành viên chính thức cam kết tuân thủ (ngay cả Mỹ tuy không tham gia nhưng trong các tuyên bố của mình vẫn lấy UNCLOS làm trục cơ sở), UNCLOS không giải quyết chi tiết mọi vấn đề biển, nhưng là căn cứ để thống nhất xử lý các vấn đề biển đã, đang và sẽ nảy sinh.

Không chỉ tích cực tham gia quá trình đàm phán xây dựng UNCLOS, Việt Nam còn là một trong các nước đầu tiên ký và sớm tiến hành thủ tục phê chuẩn UNCLOS. Ngày 16/11/1994, UNCLOS chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam. Cùng với việc phê chuẩn UNCLOS, Việt Nam cũng phê chuẩn một số công ước biển chuyên ngành về hàng hải quốc tế; cứu hộ trên biển, mớn nước, phòng chống ô nhiễm biển…

Có một điểm quan trọng cần nhấn mạnh là với UNCLOS, Việt Nam không chỉ theo đuổi quyền lịch sử, mà còn theo đuổi cả quyền pháp lý; phù hợp với đặc trưng, thế và lực của Việt Nam. Là thành viên chính thức của UNCLOS, chúng ta được hưởng đầy đủ các quyền trong vùng biển từ 200 hải lý trở vào, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với việc đó thì ta cũng được hưởng quy định, quy chế về quyền khai thác tài nguyên.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận là UNCLOS cũng còn những hạn chế nhất định, có thể nói một cách đơn giản là vẫn còn để lại những "khoảng trống" về không gian đại dương theo cách tiếp cận mới. Chẳng hạn, đối với không gian đáy đại dương thì UNCLOS mới điều chỉnh hoạt động khai thác khoáng sản; còn những hành vi khác, như tàu lặn ngầm, khảo sát ngầm, du lịch ngầm… vẫn bỏ ngỏ. Tôi cũng đã tham gia ý kiến gần chục năm nay với hy vọng là trong thời gian tới Công ước này được điều chỉnh, bổ sung, bảo đảm công bằng hơn về quyền sử dụng các nguồn tài nguyên biển cho những quốc gia, kể cả có biển hoặc không có biển; tất nhiên đi kèm với nghĩa vụ bảo vệ môi trường.

PGS, TS Nguyễn Chu Hồi

PGS, TS Nguyễn Chu Hồi

- Trước khi có UNCLOS, Việt Nam đã có những tuyên bố về chủ quyền biển cũng như đã có những định hướng khai thác tài nguyên biển, thưa ông?

- Tất nhiên là thế. Năm 1982, UNCLOS mới mở ký, nhưng trước đó khá lâu, Việt Nam đã ra tuyên bố về các vùng biển, mặc dù đến năm 1982, với UNCLOS, chúng ta mới tuyên bố được đường cơ sở, được quốc tế công nhận rộng rãi. Do đã có giai đoạn thực hiện quản lý biển khá dài, nên khi nội luật hóa UNCLOS thành Luật Biển 2012, chúng ta đã có cơ sở thực tiễn để cân nhắc, thiết kế một đạo luật hài hòa lợi ích của mình với các nước khác trong khu vực.

- UNCLOS đã tạo nền tảng pháp lý cho kinh tế biển của Việt Nam phát triển cụ thể như thế nào?

- UNCLOS tạo cơ sở để chúng ta vững tin phát triển lĩnh vực dầu khí như một ngành kinh tế tiên phong, và đến nay vẫn là một ngành then chốt trong sáu lĩnh vực kinh tế biển cơ bản của đất nước. Tương tự với đánh bắt hải sản. Còn nhiều vấn đề với ngành này, nhưng chúng ta cũng đã phát triển được nghề cá thương mại, đánh bắt với quy mô lớn, bài bản, song song với nghề cá truyền thống vốn đã tồn tại lâu nay. Một số lĩnh vực khác phát triển sau nhưng cũng rất hứa hẹn như hàng hải; du lịch biển; tìm kiếm cứu hộ cứu nạn, năng lượng tái tạo… Tóm lại, UNCLOS trao cho ta quyền pháp lý đi kèm với quyền được khai thác tài nguyên để phát triển kinh tế biển.

Trên cơ sở UNCLOS, một dấu mốc không thể không nhắc đến là Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020". Có thể nói đây là lần đầu Trung ương ban hành một chiến lược riêng, thể hiện ý chí biển cả của dân tộc, hòa nhập với xu hướng thế giới nhìn nhận thế kỷ 21 là "thế kỷ của đại dương". Tiếp đó, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ban hành ngày 22/10/2018 đã định hướng tầm nhìn chiến lược biển, lấy trục phát triển bền vững là chính.

- Biển Đông được coi là một trong những khu vực biển năng động nhất trên thế giới. Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển, vươn lên trở thành cường quốc biển, theo ông, đâu là những yếu tố then chốt trong điều kiện "thế và lực của Việt Nam", như ông đã vừa đề cập đến?

- Chú trọng phát triển cả ba khu vực kinh tế có liên quan đến biển: kinh tế ven biển, kinh tế dựa vào biển và kinh tế thuần biển theo tinh thần phát triển bền vững. Bên cạnh những lĩnh vực truyền thống, Nghị quyết số 36-NQ/TW đã chỉ ra thêm một số lĩnh vực có tiềm năng, như năng lượng biển tái tạo, đồng thời để ngỏ "các ngành kinh tế biển mới" để các địa phương tùy tình hình cụ thể mà phát huy tinh thần năng động, sáng tạo.

Cụ thể, đến năm 2030, du lịch biển vẫn là lĩnh vực mũi nhọn, vừa dựa trên thế mạnh sẵn có của một quốc gia biển, vừa là phù hợp với bối cảnh Biển Đông. Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh tế xa bờ, gắn liền với bảo vệ chủ quyền dân sự, trong đó có năng lượng tái tạo: năng lượng mặt trời, năng lượng gió… Việt Nam cũng sở hữu băng cháy, tuy không phải là năng lượng tái tạo, nhưng cũng là một tài nguyên tiềm tàng, có thể tính toán khai thác một cách có trách nhiệm. Tôi nói "có trách nhiệm", vì phải có công nghệ và hạ tầng thích hợp để khai thác, bảo quản không làm phóng thích vào khí quyển các loại khí nhà kính trong quá trình khai thác, vận chuyển và đưa vào sử dụng.

Đặc biệt, qua nghiên cứu về các đô thị biển gần đây, tôi cho rằng, việc quy hoạch phát triển hợp lý các đô thị ven biển, đô thị đảo và đô thị trên biển có khả năng tạo ra những động lực phát triển, có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Nhưng dù làm gì đi nữa, thì khoa học công nghệ tiên tiến vẫn là yếu tố tiên quyết. Không thể đem thuyền thúng đi "chinh phục" đại dương được.

- Vâng, chuỗi đô thị ven biển của 28 tỉnh, thành phố thì tương đối dễ hình dung, ông có thể nói rõ hơn về đô thị đảo và đô thị trên biển?

- Hiện ta đã có Phú Quốc là một mô hình đô thị đảo, sắp tới có thể phát triển ở một số đảo lớn khác, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng. Đô thị trên biển là viễn cảnh xa hơn, nhưng nhiều quốc gia cũng đã làm rồi, như Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất, Nhật Bản… Cá nhân tôi cho rằng cũng rất nên quan tâm đến mô hình đô thị ngầm dưới lòng biển. Nhiều nước trong khu vực cũng đã làm các "thủy cung" như những thử nghiệm ban đầu.

- Có khả thi với Việt Nam hiện nay không, vì sẽ cần đến những khoản chi phí khổng lồ và công nghệ rất hiện đại, thưa ông?

- Đừng chỉ nghĩ tiền túi. Trong một "thế giới phẳng", có chính sách mở, có dự án thuyết phục, đủ sức hấp dẫn là sẽ có tiền. Khoa học công nghệ cũng thế. Có chính sách khôn ngoan thì chúng ta sẽ làm được.

- Xin cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.