Tiếp cận tổng thể trong thu hồi đất

Một đề tài thu hút rất nhiều tranh luận trong quá trình tham vấn sửa đổi Luật Đất đai phiên bản năm 2023, đó là "Thu hồi đất để phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng". Vướng mắc lớn nhất cần được hóa giải nằm ở việc,làm rõ ai đứng ra thu hồi và thu hồi trong điều kiện nào, phục vụ loại dự án nào?
Thị trường bất động sản góp phần thúc đẩy đô thị phát triển hiện đại. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Thị trường bất động sản góp phần thúc đẩy đô thị phát triển hiện đại. Ảnh: THÀNH ĐẠT

NỘI dung này được đề cập ở Điều 62 Luật Đất đai hiện hành và ở Điều 79 chương VI Thu hồi, Trưng dụng đất và Điều 112 chương VIII về phát triển quỹ đất, bản dự thảo năm 2023.

Điều 79 dự thảo, khác với Luật hiện hành đã phân loại rất chi tiết các loại dự án phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng… và các dự án đầu tư thương mại. Thu hồi đất phục vụ dự án công cộng quốc gia, vẫn có nhiều vấn đề cần bàn luận nhưng thu hồi phục vụ các dự án phát triển nhà ở thương mại có độ phức tạp lớn hơn nhiều.

THẾ nào là vì lợi ích công cộng và thế nào là lợi ích tư nhân? Đây thật sự là lằn ranh rất mỏng manh trong định nghĩa. Vì bản chất một cá nhân riêng lẻ thì gọi là tư nhân còn nếu cho tập hợp mọi tư nhân thì đó là lợi ích của quốc gia dân tộc. Ngược lại không phải dự án nào có mục tiêu công cộng đều chắc chắn là làm lợi cho mọi người. Thí dụ lập quy hoạch xây dựng các chợ, phần nhiều không đi vào hoạt động, thì mục tiêu công cộng này trở nên vô nghĩa.

Điều 79 đưa các điều kiện về trường hợp nào thì Nhà nước đứng ra thực hiện việc thu hồi đất các dự án nhà ở thương mại. Đương nhiên, nếu Nhà nước đã đứng ra thu hồi đất cho những dự án này thì bước tiếp theo sẽ phải thực hiện theo các thủ tục đấu thầu dự án hay đấu giá quyền sử dụng đất.

Bản dự thảo đưa ra hai phương án chọn. Phương án 1 - đề ra các tiêu chí kỹ thuật như khu vực dự án đã có quy hoạch dự án đất ở, địa phương đã có ngân sách để thực hiện, v.v. và chuyển lại quyền quyết định cho Ủy ban nhân dân huyện/tỉnh thực hiện. Phương án 2 - ra các tiêu chí phân định theo quy mô về diện tích dự án, hơn 10 héc-ta là trường hợp đấu thầu, không phân biệt loại đất thực hiện dự án; dưới 10 héc-ta và không sử dụng đất ở là trường hợp đấu giá; dưới 10 héc-ta và có sử dụng đất ở là trường hợp thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc sử dụng quyền sử dụng đất đang có...

Cả hai phương án đều không đề xuất về việc có bao nhiêu tình huống trong thực tế, mà chỉ nêu lên hai trong nhiều phương án có thể. Vấn đề chính của câu hỏi mà thực tế đặt ra, đó là vai trò Nhà nước can thiệp đến đâu trong thu hồi đất? Nhà nước với hệ thống các cơ quan quản lý luôn là kỳ vọng cuối cùng của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội về sự khách quan, công tâm, đưa ra quyết định sáng suốt và tốt nhất cho xã hội. Nhà nước không phải là một bên của việc thu hồi hay là biện pháp của một bên cần thu hồi đất.

Cần nhắc lại vai trò của Nhà nước trong điều tiết thị trường, bằng công cụ quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng. Về lý thuyết kinh tế cổ điển, thị trường sẽ tìm ra lối đi cân bằng các bên mua bán và tìm được cách dồn nguồn lực tốt nhất cho xã hội. Trong thực tế, chẳng có mô hình kinh tế nào hoàn toàn tự do, mà chỉ khác nhau ở mức độ can thiệp, cách can thiệp và mục tiêu can thiệp của Nhà nước đến thị trường. Với chúng ta, đã xác định rõ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là trong bất cứ can thiệp nào phải lấy mục tiêu số đông, mục tiêu xã hội làm trọng.

DỰ án phát triển nhà ở thương mại với mục tiêu thị trường là chính, hãy để các công cụ thị trường giải quyết. Việc thu hồi đất cần sự thuận mua vừa bán giữa người phát triển dự án và người đang sở hữu quyền sử dụng đất với mức giá phù hợp với thị trường. Đương nhiên, nếu để bên bán có quyền thách đố bất cứ giá nào, thì Nhà nước, bằng các cơ quan đại diện của mình, cần thể hiện vai trò là người trung gian, khách quan xử lý vấn đề. Vì người phát triển dự án hay người sở hữu quyền sử dụng đất hiện tại cũng đều là thành phần xã hội, được Nhà nước bảo vệ, thúc đẩy và tạo điều kiện phát triển.

Khi doanh nghiệp tự thương thảo với các cá nhân, họ luôn ở thế yếu trong đàm phán. Trong khi đó, khái niệm định giá theo thị trường để phục vụ mục đích đền bù chưa có phương pháp rõ ràng trong thực tế. Dẫn đến, doanh nghiệp chỉ là bên bán theo các yêu cầu từ phía người được đền bù. Thông thường những người càng trì hoãn đền bù, càng về sau càng được đền bù giá cao hơn. Đây là trò chơi cân não và thiệt hại cho cả bên nhận đền bù và bên đền bù.

Nếu chờ giải phóng mặt bằng được đầy đủ, thì doanh nghiệp sẽ phải chờ đợi rất lâu trong điều kiện không thể có một dự báo nào về thời điểm có được đất sạch. Còn nếu doanh nghiệp triển khai một phần, khi đưa vào kinh doanh, sự chênh lệch giữa giá đền bù giải phóng mặt bằng trước khi phát triển hạ tầng và giá khi sản phẩm thương mại có hạ tầng, dẫn đến chi phí giải phóng mặt bằng càng cao, và đương nhiên càng nhiều tiềm năng khiếu kiện.

Lực lượng chức năng tiến hành cưỡng chế, thu hồi đất tại xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, Hải Dương để xây dựng khu dân cư. Ảnh: TTXVN
Lực lượng chức năng tiến hành cưỡng chế, thu hồi đất tại xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, Hải Dương để xây dựng khu dân cư. Ảnh: TTXVN

Chưa kể, trong thực tế chính quyền thường nỗ lực bàn giao phần đất làm hạ tầng, trước khi tổ chức giải phóng mặt bằng bàn giao phần đất thương mại. Đơn cử, một dự án phát triển hạ tầng du lịch ở Quảng Bình, được chấp thuận chủ trương đầu tư vào ngày 26/8/2016, và đến ngày 5/1/2018, được phê duyệt quy hoạch chi tiết cho 81.000m2, bao gồm 58% đất thương mại dịch vụ và 42% đất hạ tầng, cây xanh. Phải đến ngày 26/3/2021, mới được giao đất đợt 1 gồm 36.000 m2, nhưng chỉ được 48% diện tích thương mại dịch vụ và đến ngày 15/12/2022, giao đất đợt 2 mới được tiến hành gồm 16.000 m2, và chỉ có 65% diện tích đất thương mại dịch vụ. Như vậy, cả hai lần giao đất cũng chỉ mới đạt 75% diện tích dự án, rời rạc khắp khu đất, và phần diện tích giao lần ba khi nào thì đến nay chủ đầu tư dự án vẫn chưa được biết. Với một tiến trình giao đất giải phóng mặt bằng như vậy, khó để dự án nào có thể triển khai.

Để giải quyết được các vấn đề nêu trên, ngoài việc có cách tiếp cận đúng, còn cần phải nói rõ điều kiện tiên quyết cho người đứng làm trung gian - là việc bảo đảm sự minh bạch. Trước hết, Trung tâm phát triển quỹ đất, theo Điều 114, tuyệt đối không tham gia phát triển quỹ đất cho mục tiêu thương mại. Nhà nước cũng không được nhận bất cứ tài trợ nào về quy hoạch của doanh nghiệp tư nhân, dù là trực tiếp hay gián tiếp qua hình thức đóng tiền vào kho bạc. Vai trò trung gian chỉ được tôn trọng, và được mọi thành phần xã hội kỳ vọng khi bảo đảm sự minh bạch và các quyết định pháp luật là công bằng trong tất cả các bước thực hiện.

Như vậy, từ thực tiễn soi vào dự thảo nói trên, có thể thấy, ở bản dự thảo luật sửa đổi, vấn đề chính trong thu hồi đất, trưng thu đất chưa được đặt ra một cách tổng thể, đặc biệt chưa xác định rõ được vai trò Nhà nước ở đâu trong hoạt động này. Như đã nêu, xã hội kỳ vọng Nhà nước đóng vai trò điều phối, bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên tham gia, một cách minh bạch. Để Nhà nước đóng vai trò trung lập, yêu cầu mọi thông tin liên quan đến lựa chọn nhà thầu, các bước lập quy hoạch, giải phóng mặt bằng đều phải được minh bạch bởi mọi khiếu kiện nói cho cùng đều bắt nguồn từ việc không minh bạch.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.