Thời cơ chín muồi dồn sức đầu tư

Những bước đi vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, sự gia tăng về quy mô, tốc độ và chất lượng tăng trưởng, cùng những tiến bộ trong quản trị doanh nghiệp đã tạo cơ hội cho đường sắt phát huy thế mạnh của vận chuyển hàng hóa khối lượng lớn, độ chính xác cao. Đây chính là thời cơ chín muồi để đầu tư cho đường sắt… góp phần quan trọng vào việc giảm chi phí logistics, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bốc dỡ container từ phương tiện vận chuyển ban đầu lên tàu liên vận. Nguồn: VNR
Bốc dỡ container từ phương tiện vận chuyển ban đầu lên tàu liên vận. Nguồn: VNR

Nỗ lực giành thị phần

Cũng giống như câu chuyện đã từng diễn ra ở tất cả các quốc gia đang phát triển trên thế giới, tại Việt Nam, khi quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún… thì vai trò vận chuyển khối lượng lớn của đường sắt bị lu mờ đi trong một giai đoạn nhất định.

Gần 40 năm nay, hạ tầng đường sắt quốc gia không được đầu tư thêm mà thậm chí còn giảm so đường tàu người Pháp đã xây dựng từ năm 1881. Đặc biệt tính kết nối giữa đường sắt với các cảng biển và phương thức vận tải khác còn thấp. Phần lớn đoạn đường nhánh nối với các cảng biển trước đây đã bị tháo dỡ như: đường sắt ra cảng Cửa Lò (Nghệ An), cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Ba Ngòi (Cam Ranh), cảng Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh). Trên mạng đường sắt quốc gia hiện chỉ còn hơn 20 vị trí có đường sắt nhánh mang tính chất nhỏ lẻ nối với các nhà máy, mỏ quặng để vận chuyển xăng dầu, mỏ đá, xi-măng…

Đặc biệt, trong tổng chiều dài 3.143 km của mạng lưới đường sắt quốc gia, chỉ có 15% đạt khổ đường ray tiêu chuẩn 1.435 mm. Đây là trở ngại lớn khi kết nối liên vận do hệ thống đường sắt của Trung Quốc và các nước châu Âu đều được thiết kế theo khổ đường ray tiêu chuẩn 1.435 mm.

Hiện toàn bộ tàu hàng từ miền nam ra đều phải dừng sang tải ở ga Đồng Đăng (Lạng Sơn) trước khi “xuất ngoại”. Bên cạnh đó, hạ tầng kho bãi, ga hàng, đường kết nối vào ga không đủ tiêu chuẩn… là những trở ngại làm phát sinh thêm chi phí logistics đường sắt. Trong bối cảnh đó, đường sắt chỉ có thể “cựa mình” để tìm cách tiếp cận khách hàng, giữ ổn định thị phần vận chuyển hàng hóa. Theo số liệu thống kê của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, từ năm 2019 đến nay, lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường sắt duy trì ở khoảng 5 triệu tấn/năm.

Để phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa trải dài từ bắc đến nam, đặc biệt là phát triển tuyến liên vận giữa Việt Nam-Trung Quốc, những năm qua, Công ty cổ phần Vận tải và Thương mại đường sắt đã chủ động đầu tư vào hệ thống kho bãi và hạ tầng phương tiện (toa xe, vỏ container, xe đầu kéo, xe cẩu chuyên dụng, hệ thống thiết bị xếp dỡ hiện đại). Hiện doanh nghiệp này có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ logistics từ khâu chuẩn bị thủ tục, tổ chức đóng gói, lưu kho, thuê phương tiện vận tải, khai báo hải quan, cho đến giao vận… Nhờ chủ động chuyển đổi nên lượng hàng vận chuyển nội địa trong những năm gần đây luôn giữ ổn định. Riêng hàng liên vận từ Việt Nam đi Trung Quốc tăng gấp năm lần so khi mở tuyến vào năm 2017, đạt trung bình 1.000 lượt container/tháng.

Chia sẻ về nỗ lực giành thị phần trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với các loại hình vận tải khác, ông Mai Hoàng Long, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Vận tải và Thương mại đường sắt cho biết: Chúng tôi xác định trong điều kiện hạ tầng hiện nay, việc rút ngắn thời gian chạy tàu là rất khó, chỉ có thể trông chờ vào sự thay đổi thời gian tác nghiệp tại hai đầu biên giới. Bên cạnh đó, nhờ điều tiết khoa học, tàu về sẽ được ưu tiên dồn ngay vào ga dỡ hàng. Với hàng loạt nỗ lực như vậy, hiện chúng tôi đã rút ngắn được tổng thời gian vận chuyển tàu hàng liên vận từ Nam Ninh-Yên Viên còn 20 giờ thay vì 48 giờ vào năm 2017. Đây là một trong những yếu tố tạo ra lợi thế giúp đường sắt thu hút khách hàng thời gian qua.

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Giao thông vận tải hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến về Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam. Trong đó, Thủ tướng yêu cầu làm rõ một số nội dung như: đánh giá hiệu quả giữa các tốc độ thiết kế; việc huy động nguồn vốn; phân kỳ đầu tư…

Kết nối đường sắt, thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa quốc tế

Kể từ chuyến tàu container xuyên biên giới đầu tiên chạy từ ga Nam Ninh, Quảng Tây đến ga Yên Viên, Hà Nội vào cuối năm 2017 cho đến nay, lượng hàng hóa thông quan qua tuyến đường này tăng trưởng đều qua các năm.

Trong 5 năm trở lại đây, chủng loại hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu vận chuyển trên tuyến đường sắt này đã tăng từ 116 loại và 14 loại (năm 2019) lên 364 loại và 180 loại hiện nay. Các điểm tập kết hàng hóa đã bao phủ các thành phố ở tỉnh Quảng Tây và các tỉnh lân cận của Trung Quốc, vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới tới các nước ASEAN như Việt Nam, Lào, Thái Lan. Đặc biệt từ tháng 6/2023, ngành đường sắt Trung Quốc bắt đầu khai thác thường xuyên ba chuyến tàu/tuần thông quan nhanh Trung Quốc-Việt Nam.

Đánh giá cao những việc ngành đường sắt đã làm, Viện trưởng Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải (Bộ Giao thông vận tải) Khuất Việt Hùng cho rằng, việc thay đổi tư duy quản trị theo hướng hiện đại để tiếp cận và thật sự phục vụ khách hàng đã đưa đường sắt trở thành một phần quan trọng trong chuỗi logistics. Xét ở cự ly dài hơn 300 km, đường bộ không có lợi thế để so sánh với đường sắt. Ở cự ly dài hơn nữa, đường biển dù giá rẻ nhưng thời gian vận chuyển lâu, nguy cơ thất thoát lớn hơn, trung chuyển thường xa hơn... Để kết nối với Trung Quốc - thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất hiện nay của Việt Nam thì đường sắt là phương thức vận tải tối ưu. Đặc biệt, tuyến đường sắt đi qua Việt Nam là con đường ngắn nhất giúp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) hướng ra biển. Đó là một thị trường khổng lồ, mở ra cơ hội lớn cho cả hai nền kinh tế cùng phát triển.

Mới đây, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, hai nước đã thống nhất tiếp tục thúc đẩy, thực hiện tốt kế hoạch hợp tác kết nối giữa khuôn khổ “Hai hành lang, Một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Trong đó, Việt Nam-Trung Quốc vừa đẩy nhanh thúc đẩy “kết nối cứng” giữa hai nước về đường sắt tốc độ cao, kết cấu hạ tầng cửa khẩu, vừa nâng cấp “kết nối mềm” về hải quan thông minh, cửa khẩu thông minh. Đây là những nền tảng thuận lợi để đẩy nhanh tiến trình phát triển logistics đường sắt. Hiện hai nước đã nhất trí tập trung thúc đẩy hợp tác triển khai ba tuyến đường sắt kết nối Việt Nam-Trung Quốc (Lào

Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Lạng Sơn - Hà Nội; Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng). Đây là con đường giúp Việt Nam kết nối với Trung Á, châu Âu qua Trung Quốc và ngược lại.

Để đường sắt thật sự trở thành lựa chọn ưu tiên hàng đầu trong chuỗi cung ứng logistics, ông Khuất Việt Hùng cho rằng, việc đầu tiên phải làm là tập trung phát triển hạ tầng. Bên cạnh đầu tư tuyến đường sắt mới, cần tiếp tục nâng cấp, cải tạo hệ thống đường sắt hiện hữu. Trong tương lai, khi tuyến đường sắt tốc độ cao bắc-nam hoàn thành tập trung nhiệm vụ chở khách thì tuyến cũ sẽ đảm đương nhiệm vụ chở hàng. Thứ đến, cần tiếp tục tăng cường kết nối đường sắt với đường bộ, cảng biển và các khu công nghiệp lớn. Bên cạnh những kết nối “cứng” về hạ tầng, bản thân ngành đường sắt cần tiếp tục thay đổi tư duy, nâng cao trình độ quản trị kinh doanh để tạo ra những kết nối “mềm” tiến sâu vào chuỗi logistics. Đây là thời cơ chín muồi cần những hành động quyết liệt để chuẩn bị cho kỷ nguyên phát triển của đường sắt, biến đường sắt thành động lực tăng trưởng kinh tế.

Chỉ tính riêng từ đầu năm đến ngày 31/7, tổng cộng 6.850 container tiêu chuẩn (TEU) đã được vận chuyển qua tuyến xuyên biên giới chạy từ ga Nam Ninh, Quảng Tây đến ga Yên Viên, Hà Nội, tăng gấp 16 lần so cùng kỳ năm trước, trở thành “làn nhanh” mới, góp phần thúc đẩy trao đổi kinh tế, thương mại giữa Việt Nam, Trung Quốc.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.