Tây Nguyên trước áp lực di cư tự do

Việc tiếp nhận thụ động lượng lớn dân di cư tự do khiến cho quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của khu vực Tây Nguyên chịu nhiều áp lực, từ đó ảnh hưởng đến việc phân bổ dân cư, khả năng đáp ứng về cơ sở hạ tầng cũng như gia tăng tình trạng phá rừng…
Nhiều diện tích đất lâm nghiệp và rừng bị dân di cư tự do lấn chiếm, sinh sống, sản xuất tại huyện Đắk Glong, Đắk Nông.
Nhiều diện tích đất lâm nghiệp và rừng bị dân di cư tự do lấn chiếm, sinh sống, sản xuất tại huyện Đắk Glong, Đắk Nông.

Lặng lẽ tìm "đất hứa"

Sau một lần đến thăm người thân từng theo làn sóng di cư tự do đến huyện Đắk Glong (Đắk Nông), năm 2012, chị Hoàng Thị Xuân, dân tộc Dao, quyết định cùng chồng vào miền đất này lập nghiệp. Đến nay, sau nhiều năm từ miền bắc vào Đắk Nông, cuộc sống gia đình chị vẫn rất vất vả, bấp bênh. Không có hộ khẩu, hai người con đã đến tuổi đi học nhưng vẫn chưa có giấy khai sinh. Thêm nữa, gia đình chưa được hưởng các chế độ trợ cấp theo quy định vì thuộc diện dân di cư tự do, thậm chí còn đang chiếm giữ đất lâm nghiệp trái quy định do mua đất không rõ nguồn gốc.

Cũng như nhiều bà con người đồng bào dân tộc thiểu số khác, giai đoạn 2005-2010, hàng trăm hộ người dân tộc H’Mông ở phía bắc cũng tìm đến "định cư" giữa vùng sâu khu vực Tây Sơn, Đạ M’Pô, tiểu khu 178, 179, 181, thuộc xã Liêng Srônh, huyện Đam Rông, Lâm Đồng. Chúng tôi từng trò chuyện cùng ông Ma Seo Cháng ở tiểu khu 179, ông chia sẻ: "Nói thật, di cư tự do, sống chui lủi giữa rừng khổ lắm. Nhiều lúc nản chí định bỏ về, nhưng ở quê cũng khó khăn nên đành cố bám trụ... May nhờ được Đảng, Nhà nước quan tâm, hỗ trợ nên đỡ phần nào".

Cách đây chưa lâu, chúng tôi từng vạch lau lách tìm đến tiểu khu 265, 271, ở xã Cư M’lan, huyện Ea Súp, Đắk Lắk. Hai tiểu khu cách trung tâm xã khoảng 30km, nhưng đi xe máy phải mất hơn hai giờ đồng hồ. Trước mặt là những túp lều tạm bợ, nhếch nhác cạnh một cánh rừng bị phá tan hoang. Chúng tôi ghé lều, trò chuyện với vợ chồng anh Sùng Dao Cán, dân tộc Dao, quê Cao Bằng, di cư vào tiểu khu 265 được vài năm. Nhìn lên ngọn đồi phía trước, anh Cán nói: "Biết là sai, nhưng để có đất sản xuất, tôi và nhiều người khác đã phá một ít rừng để trồng ngô, sắn mưu sinh". Theo lời anh Cán, cuộc sống của người dân ở đây khốn khó tột cùng. Tất cả họ đều là dân di cư tự do nghèo đói, thiếu thốn đủ bề bởi không hộ khẩu, không giấy tờ tùy thân, sống trong điều kiện không có điện, nước dùng lấy từ suối, không trường học, không trạm y tế... Cuộc mưu sinh gian nan của anh Sùng Dao Cán và những người đồng hương, cùng những dân tộc khác trên vùng đất mới, cũng là nét chung của hàng nghìn hộ đồng bào từ nhiều miền Tổ quốc đến vùng đất Tây Nguyên bằng con đường di cư tự do.

Gánh gồng xử lý hệ lụy

Từ sau năm 1975 đến nay, khu vực Tây Nguyên luôn có các biến động dân cư với quy mô lớn. Năm 1976, dân số Tây Nguyên khoảng 1,23 triệu người, với 18 dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 69% dân số; đến năm 1993, tăng lên 2,37 triệu người, với 35 dân tộc; năm 2003 là 4,67 triệu, với 46 dân tộc và đến nay dân số gần 6 triệu người, với 54 dân tộc anh em, đồng bào dân tộc thiểu số gần 2,2 triệu người. Từ năm 1976 đến nay, làn sóng di cư tự do đến Đắk Lắk khoảng 60 nghìn hộ, với hơn 291 nghìn người; tại Đắk Nông hơn 38 nghìn hộ, với khoảng 173 nghìn người và tại Lâm Đồng là 2.166 hộ, với hơn 8,2 nghìn người. Hàng nghìn người dân các tỉnh phía bắc bỏ lại bản làng cố hương, mang theo khát vọng đổi đời đến với Tây Nguyên bằng con đường di cư tự do. Mông lung, lạ lẫm, không hình dung trước tương lai, nhưng dòng người di cư tự do vẫn ồ ạt đến Tây Nguyên.

Kết quả rà soát đến năm 2022, Tây Nguyên còn hơn 16 nghìn hộ dân di cư tự do, với khoảng 49,8 nghìn người, đang sinh sống phân tán tại các địa phương cần được sắp xếp, bố trí ổn định theo quy hoạch. Đây là bài toán khó với các tỉnh vùng phên dậu phía tây Tổ quốc. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tình trạng dân di cư tự do kéo theo nhiều hệ lụy về kinh tế-xã hội, phá vỡ quy hoạch dân cư, quy hoạch đất đai, vùng sản xuất, phát sinh một số điểm nóng về an ninh trật tự và tình trạng lấn chiếm, phá rừng liên tục xảy ra.

Những năm gần đây, việc ổn định tình hình dân di cư tự do được Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành Trung ương quan tâm, chỉ đạo quyết liệt; các địa phương tích cực thực hiện các dự án bố trí dân di cư tự do bước đầu đã mang lại hiệu quả nhất định, đời sống của người dân dần đổi thay. Cụ thể như giai đoạn 2016-2021, Lâm Đồng đã triển khai chín dự án, nguồn vốn hơn 296 tỷ đồng, đã bố trí ổn định 692 hộ, với 2.768 nhân khẩu, đạt hơn 30% so mục tiêu đề ra. Tại Đắk Lắk, từ năm 2006 đến nay, tỉnh đã lập quy hoạch 17 dự án bố trí, sắp xếp ổn định dân di cư tự do và đã được phê duyệt 15 dự án, trong đó có 13 dự án đang triển khai, với tổng mức đầu tư hơn 670 tỷ đồng, quy mô bố trí tập trung cho 4.402 hộ dân di cư tự do. Tỉnh Đắk Nông có 13 dự án ổn định dân di cư tự do trong kế hoạch giai đoạn 2021-2025, nhưng kinh phí triển khai chưa được bố trí kịp thời…

Thực tế tại Tây Nguyên cho thấy, trong thời gian dài, việc giải quyết tình trạng dân di cư tự do vẫn còn nhiều khó khăn, mà thiếu hụt nguồn vốn triển khai chỉ là một trong nhiều vấn đề cần phải được giải quyết tận gốc. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Phạm S cho biết: "Hiện nay, tuy tình trạng dân di cư tự do đến Lâm Đồng nói riêng và Tây Nguyên không còn ồ ạt như trước đây, nhưng vẫn diễn biến phức tạp, số hộ dân di cư tự do cần bố trí ổn định vẫn còn nhiều, gây áp lực lớn cho chính quyền và các ngành chức năng địa phương".

Còn theo đề xuất từ Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông Phạm Tuấn Anh, để xử lý căn cơ tình trạng dân di cư tự do, trước hết, phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân. Đi đôi với đó là triển khai tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách thu hút nguồn lực hỗ trợ đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm người dân tại chỗ có sinh kế, có đủ điều kiện phát triển sản xuất và được chăm sóc đủ về an sinh xã hội để họ yên tâm định cư, lao động và nâng cao đời sống. Khẩn trương ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ để thực hiện các nội dung, giải pháp của chương trình bố trí dân cư tại địa phương; rà soát, bổ sung các dự án bố trí ổn định dân di cư tự do theo kế hoạch và ưu tiên bố trí nguồn vốn để hoàn thành dứt điểm các dự án. Cùng với đó, tạo điều kiện cho người dân di cư tự do được hưởng các quyền lợi, lợi ích hợp pháp và thực hiện các nghĩa vụ công dân tại địa phương; triển khai các mô hình sinh kế hợp lý để người dân phát triển kinh tế bền vững. Những giải pháp đồng bộ này không chỉ giúp Tây Nguyên giải quyết tận gốc những hệ lụy của di dân tự do mà xét tổng thể, còn giúp cho nhiều địa phương khác có được nguồn lao động tại chỗ dồi dào, góp phần vào việc phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh, thành phố trên cả nước.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.