Tài sản công dôi dư sẽ “đi” về đâu?

Việc tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, bỏ cấp huyện là quyết định lịch sử, tạo không gian phát triển cho đất nước vươn mình, hướng tới giàu mạnh và hùng cường. Trong khối lượng công việc khổng lồ, phức tạp, nhạy cảm mà chúng ta đang làm, không thể không nói đến số tài sản công dôi dư, nhất là công sở sẽ “đi” về đâu, sử dụng như thế nào để không lãng phí, thất thoát. Tìm lời đáp cho vấn đề này không hề đơn giản.
Quản lý và sử dụng hợp lý công sở dôi dư sau sắp xếp là đòi hỏi cấp bách. Ảnh: MỸ HÀO
Quản lý và sử dụng hợp lý công sở dôi dư sau sắp xếp là đòi hỏi cấp bách. Ảnh: MỸ HÀO

Theo dự kiến số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau sáp nhập còn hơn 50%; gần 700 đơn vị hành chính cấp huyện không còn nữa; 10.035 đơn vị cấp xã cũng giảm còn khoảng 30%-40%. Như vậy là sẽ có hàng nghìn công sở dôi dư và số lượng rất lớn phương tiện, trang bị làm việc, từ bàn ghế đến máy móc và nhiều tài sản có giá trị khác được mua sắm từ nguồn ngân sách nhà nước cần có phương án xử lý hiệu quả, không để lãng phí, thất thoát.

“Cha chung” ai cũng phải khóc

Chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, gồm cấp tỉnh và cấp xã là một cuộc cách mạng với quy mô chưa từng có. Các cơ quan Trung ương gương mẫu làm trước, cán bộ, công chức, viên chức các bộ, ngành... đã về ngôi nhà chung sau hợp nhất, nhưng nhiều trụ sở làm việc vẫn đang “nằm lại phía sau”. Cán bộ cấp tỉnh, huyện, xã cũng đang nghe ngóng quyết định từ Trung ương. Dự kiến ngày 1/7 tới, cấp xã sau sáp nhập sẽ đi vào hoạt động; đối với cấp tỉnh là từ ngày 30/8/2025. Trong khi chúng ta “vừa chạy vừa xếp hàng”, dồn sức cho nhiều việc phải hoàn thành sớm, trước mắt là sửa đổi luật, nghiên cứu, lấy ý kiến các cấp, các ngành, địa phương, hoàn thiện đề án sáp nhập đơn vị hành chính, đặc biệt là việc tinh giản, sắp xếp cán bộ để ai có thể tiếp tục công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn phát triển mới của đất nước; ai nằm trong danh sách dôi dư và chế độ, chính sách đối với họ như thế nào. Việc tính toán, sử dụng tài sản công, nhất là công sở dôi dư chưa được quan tâm đúng mức trong lúc này.

Vấn đề sáp nhập đơn vị hành chính trước đây chúng ta đã làm và số tài sản, công sở dôi dư được các ngành, địa phương liên quan cố gắng xử lý bằng cách chuyển mục đích sử dụng. Nhưng nhiều nơi không tránh khỏi lãng phí, thất thoát, thậm chí có nơi công sở bị bỏ không trong thời gian dài. Trụ sở làm việc của một số tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh có diện tích rộng, xây dựng kiên cố, nhiều nhà làm việc, hội trường, nhà phục vụ, được sử dụng cho một số cơ quan với số lượng cán bộ công chức, viên chức không nhiều. Đó là chưa kể đến hàng loạt công sở của các sở, ngành cấp tỉnh, rồi trụ sở làm việc cấp xã cũng trong tình trạng tương tự. Khó nhất là công năng của trụ sở mỗi cấp mỗi khác; nhiều nơi muốn sử dụng được, “chủ mới” phải bỏ một khoản kinh phí nhất định để cải tạo.

Để tài sản công dôi dư không lãng phí, thất thoát, thiết nghĩ “việc cần làm ngay” khi các tổ chức chưa có đủ thời gian giải quyết là mọi cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức cần có ý thức cao trong việc quản lý, bảo quản, bảo đảm mọi trang thiết bị không bị hư hỏng, mất mát; công sở không bị bỏ không. Ai cũng phải trân trọng, bảo vệ tài sản công như tài sản của chính mình, tránh kiểu “cha chung không ai khóc”.

Lúc này càng phải thấm nhuần lời dặn của Bác Hồ kính yêu: “Phải quý trọng của công: Tất cả cái ăn, cái mặc, cái dùng của các cô, các chú là mồ hôi nước mắt của đồng bào. Phải tiết kiệm, giữ gìn, không được lãng phí”. (Hồ Chí Minh toàn Tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tập 9, H. 2011, trg 221).

Để lãng phí, thất thoát là có tội với dân

Thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo rất quyết liệt theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, nhưng không được nóng vội, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nặng nề này một cách triệt để, toàn diện. Trong bài viết Chống lãng phí, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra tác hại và các giải pháp để chữa trị căn bệnh lãng phí. Đây là vấn đề cần quán triệt thật tốt khi tinh gọn tổ chức bộ máy và sáp nhập đơn vị hành chính theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Dù chưa mang lại kết quả như mong muốn, nhưng việc xử lý tài sản công, nhất là công sở dôi dư khi sáp nhập các đơn vị hành chính trước đây cho chúng ta nhiều kinh nghiệm, kể cả những việc chưa làm được. Ngay từ bây giờ, trong quá trình chuẩn bị sáp nhập đơn vị hành chính, cần tính đến việc quản lý tài sản công dôi dư, nhất là các trang thiết bị hiện đại, đắt tiền để có thể tiếp tục sử dụng khi bộ máy mới sau sáp nhập đi vào hoạt động, hạn chế tối đa mua sắm mới. Các đơn vị cần tổng kiểm kê tài sản đến khi hoàn tất việc sáp nhập. Đối với tài sản dôi dư hoặc phải xử lý thì lập hồ sơ báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định. Việc bàn giao, tiếp nhận phải công khai, minh bạch và đầy đủ.

Các cơ quan sau sáp nhập chịu trách nhiệm quản lý và tìm cách chuyển đổi mục đích sử dụng công sở dôi dư của tỉnh, thành phố, huyện. Trong đó nhiều trụ sở làm việc của huyện và các ban, ngành cùng cấp có thể giao cho xã sử dụng làm nơi làm việc. Đối với công sở của tỉnh, các sở, ban, ngành cần được tính toán kỹ lưỡng, hợp lý để tránh tình trạng bỏ không lâu ngày, đây là khối lượng tài sản lớn nhưng rất khó chuyển đổi mục đích sử dụng vì công năng hoàn toàn khác. Một số ý kiến cho rằng có thể giao cho các trường học, hoặc bệnh viện sử dụng.

Chủ trương chống lãng phí nói chung, lãng phí tài sản công nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm từ trước đến nay. Nhưng tình trạng lãng phí vẫn còn diễn ra khá phổ biến, làm suy giảm nguồn lực con người, tài chính, giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, là rào cản vô hình trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Trong bối cảnh giao thời hiện nay, khi các cấp đang trong quá trình sáp nhập, giải thể (cấp huyện), công tác quản lý tài sản công vốn đã khó lại càng khó hơn, bởi tính chất của công việc, bởi nhiều cán bộ, công chức, viên chức bị tư tưởng sáp nhập chi phối mà xao nhãng công việc, thậm chí thiếu ý thức trong quản lý, không quý trọng tài sản công. Hơn bao giờ hết các cấp ủy, cơ quan cần xác định không để tài sản công dôi dư lãng phí, thất thoát là nhiệm vụ cấp bách; quán triệt đến mọi cán bộ, công chức, viên chức, thực hiện nghiêm Quy định số 189, ngày 8/10/2024 của Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2025 ban hành theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 31/12/2024.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.