PVN cần được trao cơ hội để bứt phá

Xu hướng chuyển dịch năng lượng, những biến động phức tạp của địa chính trị ảnh hưởng tới cung, cầu dầu thô, các sản phẩm từ dầu... đang đặt Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vào thế buộc phải làm khác để bứt phá. Tuy nhiên, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước đang làm khó kế hoạch này.

TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương​​​​​​​
TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương​​​​​​​

- Xin ông nhìn nhận về những thách thức lớn mà PVN đang đối mặt trong bối cảnh thị trường xăng dầu toàn cầu gặp khó khăn?

- PVN đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn như xu hướng chuyển dịch năng lượng, biến động cung, cầu dầu thô, các sản phẩm từ dầu trên thế giới... Nhưng theo tôi, có lẽ thách thức lớn hơn cả là cơ chế, chính sách để PVN hoạt động. Tập đoàn này cần phải đặt ra tầm nhìn mang tính chiến lược cũng như có đủ năng lực, nguồn lực để thực hiện tầm nhìn, chiến lược đó. Thực tế, đây không chỉ là thách thức của PVN mà của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước.

- Cụ thể, cơ chế mà ông muốn nói đến là gì?

- Thông thường, trong bối cảnh có sự thay đổi lớn về nhu cầu thị trường, thói quen tiêu dùng, doanh nghiệp sẽ phải đặt ra bài toán về kế hoạch hành động là gì, tìm kiếm thị trường mới, nghiên cứu sản phẩm mới... như thế nào và cần phải chuẩn bị những gì cho việc hiện thực hóa kế hoạch mới đó. Nguyên tắc và thông lệ trong kinh doanh là cơ hội này đóng lại thì phải mở ra cơ hội khác, nếu không muốn tụt lùi.

Trong lĩnh vực năng lượng, như khai thác dầu khí, nếu trữ lượng tới hạn thì doanh nghiệp cần tìm kiếm mỏ mới; hay đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch để bắt kịp xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu. Nhưng với PVN và nhiều doanh nghiệp nhà nước khác, đây lại là câu hỏi rất khó, nhất là trong bối cảnh mọi việc thay đổi rất nhanh, cần các quyết định kịp thời.

Rào cản xuất hiện ngay từ quy định pháp luật liên quan đến quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn và tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu... hiện chưa đồng bộ, chưa phù hợp đầu tư kinh doanh và quản trị điều hành doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước buộc phải xin ý kiến, xin chấp thuận và phê duyệt của nhiều cơ quan quản lý trong việc quyết định các vấn đề quản trị kinh doanh của doanh nghiệp...

- Trong kinh doanh có yếu tố rủi ro lớn đi kèm với lợi nhuận cao, tuy nhiên với doanh nghiệp nhà nước, không đơn giản như vậy, thưa ông?

- Đúng là cơ chế chấp nhận rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước hầu như không có. Các doanh nghiệp rất sợ đầu tư mà thua lỗ. Cũng vì tính chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh bị bó buộc, khiến doanh nghiệp nhiều khi không được làm, thậm chí không dám làm. Không thể cạnh tranh được trong tình thế này, nhất là khi PVN và các doanh nghiệp nhà nước khác phải bước ra khỏi vùng an toàn, phải đầu tư ra nước ngoài, cạnh tranh trên thị trường quốc tế...

PVN cần được trao cơ hội để bứt phá -0
Tuy là quốc gia khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu dầu thô về chế biến. Ảnh: HUY HÙNG 

- Liệu rằng, doanh nghiệp nhà nước có thể vận hành như doanh nghiệp tư nhân? Cơ chế nào bảo đảm kiểm soát vốn và khả năng sinh lời?

- Có thể nói một cách hình ảnh, trách nhiệm, vai trò của doanh nghiệp nhà nước rất lớn, rất hoành tráng, nhưng cơ chế để hoạt động lại rất èo uột. Thử hỏi PVN có thể làm gì trong bối cảnh thế giới có xu hướng chuyển dịch năng lượng, cũng như có thể tận dụng cơ hội nào trong sự chuyển dịch này?

Nếu PVN muốn đầu tư vào các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo hay đặc biệt là công nghệ tích trữ năng lượng, thì cần nguồn lực lớn, cả vốn và nhân lực để đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển, mở rộng thị trường... Nhưng với cơ chế, chính sách dành cho doanh nghiệp thiên về quản lý chặt chẽ vốn nhà nước hơn là gia tăng hiệu quả nguồn lực, thời gian để làm thủ tục cho một dự án mất vài năm, thì PVN hay các doanh nghiệp nhà nước không muốn làm, không dám làm và cũng không thể làm vì không cạnh tranh được với các doanh nghiệp tư nhân trong cùng một sản phẩm, dịch vụ...

- Nghĩa là PVN phải thật sự được hoạt động như một doanh nghiệp có khả năng chơi cùng luật chơi với doanh nghiệp toàn cầu?

- Đó là yêu cầu đầu tiên của phát triển trong kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước cần có cơ chế để sẵn sàng bước chân vào cạnh tranh quốc tế, sẵn sàng đầu tư mạo hiểm, mở ra hướng kinh doanh mới, tạo hệ sinh thái trong ngành năng lượng. PVN chỉ được khai thác và chế biến các sản phẩm từ dầu, chỉ ở trong nước thì không thể phát triển được. Việc tái cơ cấu các doanh nghiệp này cần phải có tầm nhìn, chiến lược dài hạn, bứt phá, để có sự chuẩn bị cho giai đoạn tới.

- Xin cảm ơn ông!

Nhìn vào không gian phát triển của PVN, để phát triển mạnh mẽ hơn, Tập đoàn phải đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm các mỏ dầu mới, đầu tư đổi mới công nghệ khai thác, phát triển nguồn năng lượng mới, thậm chí là đầu tư lĩnh vực mới như dự trữ năng lượng. Nhưng với cơ chế hiện hành, PVN không thể làm khác. Dư địa phát triển vì thế bị hạn hẹp.

TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.