Nhà thầu “nội” sẵn sàng đón nhận thử thách

Theo lộ trình đề xuất, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam sẽ khởi công năm 2027, phấn đấu hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035. Việc đưa dự án “về đích” với khối lượng công việc khổng lồ trong thời gian chưa đầy 10 năm được đánh giá là cơ hội, nhưng cũng là thách thức rất lớn.
Nhiều doanh nghiệp giao thông trong nước tự tin có thể tham gia phần hạ tầng dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam.
Nhiều doanh nghiệp giao thông trong nước tự tin có thể tham gia phần hạ tầng dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam.

Với tổng chiều dài dự án 1.541 km, gồm 60% là kết cấu cầu, 30% kết cấu nền đất, 10% kết cấu hầm, phần hạ tầng của “siêu dự án” này sẽ mang lại cơ hội việc làm và gia tăng năng lực rất lớn đối với các nhà thầu xây lắp hạ tầng giao thông Việt Nam.

Áp dụng cơ chế chỉ định thầu

Để chuẩn bị cho “siêu” dự án, các nhà thầu lớn trong nước đều đã rốt ráo chuẩn bị nguồn lực, với kinh nghiệm tích lũy từ việc cải tạo, mở rộng quốc lộ 1 trước đây, cùng khả năng “thực chiến” qua hai giai đoạn triển khai dự án đường cao tốc bắc-nam hiện tại. Để về đích, hầu hết doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng công trình giao thông đều cho rằng, công tác khảo sát thiết kế ban đầu cần phải thực hiện thật sự chỉn chu, kỹ càng, khâu giải phóng mặt bằng cũng như chuẩn bị nguồn cung vật tư, vật liệu phải “đi trước một bước” thời điểm dự án khởi công.

Luôn theo dõi sát sao quá trình hình thành của dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam từ ý tưởng đến quá trình thực hiện các bước chuẩn bị đầu tư, ông Cao Đăng Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Định An đánh giá, đây là dự án có quy mô rất lớn, đòi hỏi đội ngũ nhà thầu, tư vấn, nhà cung cấp thiết bị thật sự có năng lực.

“Tôi cho rằng, yếu tố tiên quyết và quan trọng nhất giúp phần xây lắp hạ tầng của dự án không bị lùi tiến độ và bảo đảm chất lượng, là khi dự án bấm nút khởi công, nhà thầu phải nhận được toàn bộ mặt bằng sạch trên công địa để tổ chức thi công đồng loạt, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật khắt khe của tuyến đường sắt tốc độ cao”, ông Cao Đăng Hoạt nêu rõ. Muốn vậy, công tác này cần được tách thành hạng mục riêng, giao cho các địa phương tiến hành kiểm kê, đền bù, hoàn thành 100% trước khi đấu thầu xây lắp, triển khai khởi công dự án.

Bên cạnh đó, lãnh đạo một số doanh nghiệp có chung kiến nghị, phần hạ tầng của dự án nên chia thành các gói thầu lớn, liên danh các nhà thầu hình thành Tổng thầu, nhằm tập trung kinh nghiệm và năng lực triển khai các dự án trọng điểm quốc gia, bởi nếu chia nhỏ các gói thầu, việc quản lý giám sát sẽ manh mún, tốn kém và không phát huy hiệu quả năng lực thực hiện khối lượng công việc.

Rèn luyện từ “thao trường” lớn

Theo đánh giá của Thứ trưởng Giao thông vận tải Nguyễn Danh Huy, trong quá trình triển khai các công trình giao thông trọng điểm, quy mô lớn thời gian qua, Việt Nam đã hình thành được một đội ngũ nhà thầu khá mạnh, có đủ năng lực, kinh nghiệm thi công tất cả về kết cấu hạ tầng giao thông, cho nên có thể nói, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam sẽ là cơ hội không thể tốt hơn cho nhà thầu xây lắp tạo dựng thương hiệu và có bước chuyển mình mạnh mẽ khi tham gia. Hiện các doanh nghiệp “nội” cũng sẵn sàng tâm thế chuẩn bị đội ngũ nhân sự có kinh nghiệm, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị chuyên dụng.

“Theo ước tính, trên phạm vi cả nước có 20-30 doanh nghiệp, nhà thầu “nội” đủ năng lực triển khai phần hạ tầng của dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam như: Đèo Cả, Trường Sơn, Cienco 4, Sơn Hải, Phương Thành, Định An, Hải Đăng, Vinaconex… Đây là những nhà thầu đã được rèn luyện trên “thao trường” dự án đường cao tốc bắc-nam. Họ từng đối mặt khó khăn, thách thức lớn như đại dịch Covid-19, “bão giá” do thiếu hụt nguồn cung nguyên nhiên vật liệu hay chậm trễ giải phóng mặt bằng… Đôi lúc tưởng như không thể vượt qua, song các doanh nghiệp giao thông “nội” đã nỗ lực vượt khó để thi công, hoàn thành đạt hoặc vượt tiến độ. Một khối lượng công việc khổng lồ, nhiều hạng mục phức tạp như dự án đường cao tốc bắc-nam, mà các doanh nghiệp “nội” đã hoàn thành chỉ trong hơn hai năm, cho thấy năng lực tài chính, kinh nghiệm, đội ngũ lao động của doanh nghiệp ngành giao thông đã lớn mạnh thế nào”, Chủ tịch Tập đoàn Định An chia sẻ.

Để “đón đầu” phần xây lắp hạ tầng dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam, Tập đoàn Đèo Cả đã hợp tác với các trường đại học, tuyển sinh đào tạo nhân lực ngành đường sắt, triển khai mô hình hợp tác gồm: đặt hàng tại nguồn và đào tạo tại chỗ; nghiên cứu thực tiễn quá trình đào tạo ngành đường sắt-metro của các nước tiên tiến như: Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... nhằm chọn lọc “nhập khẩu” chương trình và chuyên gia đào tạo.

Ông Phạm Văn Khôi-Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng giao thông Phương Thành cho biết, phần hạ tầng của “siêu” dự án này gồm các hạng mục nền đường, cầu, hầm tương tự dự án đường bộ cao tốc bắc-nam, nhưng hạng mục cầu cạn siêu cao đòi hỏi độ chính xác trong thi công, chất lượng và độ cứng nghiêm ngặt hơn. Do đó, trước khi triển khai thi công đồng loạt các hạng mục của dự án, Nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về tư vấn thiết kế, giám sát, và nên thuê chuyên gia nước ngoài hỗ trợ trong thi công, quản lý chất lượng. Các hợp phần: đầu máy toa xe, hệ thống thông tin tín hiệu… có thể xem xét giao cho doanh nghiệp trong nước liên danh doanh nghiệp nước ngoài triển khai.

Cơ quan Nhà nước cần chủ động nguồn vốn, tính đúng, tính đủ về hệ số đơn giá, định mức, lựa chọn các nhà thầu có năng lực tài chính, kinh nghiệm thi công; xây dựng cơ chế đặc thù cung ứng nguồn vật liệu, giao mỏ cho các nhà thầu tương tự như dự án đường cao tốc bắc-nam vừa qua, giúp giảm khâu trung gian và tránh đội giá.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.