40 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu: Điều chúng tôi mong đợi

Được gọi là bên thứ ba, nhóm trí thức dân tộc sống và làm việc trong chế độ Việt Nam Cộng hòa đã có những đóng góp không nhỏ để ngày non sông liền một dải được gần lại. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu - một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng, đã dành cho PV Báo Nhân Dân cuối tuần cuộc trò chuyện chân thành và cởi mở...

Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu và con gái.
Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu và con gái.

Mong muốn độc lập dân tộc, thống nhất đất nước...

- Thưa nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, là người trong cuộc, ông có thể nói về thành phần thứ ba đó?

- Sau Hiệp định Pa-ri (Paris) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973 thì tình hình Việt Nam lúc đó tạm gọi có ba thành phần. Một, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; hai, chính quyền Việt Nam Cộng hòa; và ba, những người muốn độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Như vậy là cả ba thành phần đều giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam.

Thật ra thì thành phần thứ ba này rất đông. Tôi tham gia nhóm trí thức thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ (Genève) về đình chỉ chiến sự tại Việt Nam năm 1954 rồi Hiệp định Pa-ri (1973). Nhóm hình thành tại Sài Gòn hồi năm 1955 với tác phong rộng rãi để ai nấy tự do hoạt động xã hội -chính trị - tín ngưỡng - nghề nghiệp riêng của mình. Nhóm gồm các bạn luật sư (LS) Vũ Văn Hiền, LS Nguyễn Văn Huyền, tiến sĩ Âu Trường Thanh, chuyên viên ngân hàng Nguyễn Văn Diệp, GS Lý Chánh Trung, GS Nguyễn Văn Trung, LS Trần Văn Tuyên... Tôi giữ liên lạc với hai ông Nguyễn Mạnh Hà và Hoàng Xuân Hãn - người cùng lập trường, đang lưu trú ở Pháp.

- Hoạt động này là công khai hay bí mật, thưa ông?

- Thú thật, tôi chắc những anh em Việt Cộng không biết tôi là ai mà những anh em trong chính quyền quốc gia cũng như Việt Nam Cộng hòa cũng không biết tôi là ai. Tôi chỉ là người công giáo, tạm thời là một người công giáo tốt, gắn bó với công giáo từ xưa đến nay qua các giai đoạn lịch sử của mình. Thành thực mà nói, cũng như anh em đều thấy, yếu tố công giáo không có vai trò gì lớn trong chuyện chiến tranh - hòa bình ở Việt Nam. Đến ngày cuối cùng tôi có tham dự vào việc đi vào Trại Đa-vít.

- Ông có nhắc đến luật sư Nguyễn Văn Huyền trong nhiều bài viết?

- Sau Mậu Thân 1968, nhận thấy tình hình cũng như thông điệp của Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đưa thông điệp đề nghị các bên lâm chiến vào bàn hội nghị, theo đó chúng tôi bàn với nhau cũng phải đóng góp vào chuyện đó thế nào? Đến cuối cùng của cuộc chiến, còn hai ngày nữa, ông Dương Văn Minh lập chính phủ gồm Minh, Huyền, Mẫu.

Chính phủ của ông Dương Văn Minh ai cũng biết, ông Minh là quân đội, thế thì cần hai đại biểu của hai tôn giáo: một ông công giáo và một ông phật giáo. Với ông Huyền, mọi người đều biết là một người hiền lành. Không biết tại sao ông lại là Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm? Tôi hỏi ông ấy, ông đặc trách hòa đàm mà ông đã có cách gì để hòa đàm chưa? Ông nói, chưa. Tôi bảo, thế thì anh cứ đi vào Trại Đa-vít để xem tình hình thế nào? Bởi vì chính phủ Dương Văn Minh thành lập lúc bấy giờ là chỉ để thi hành Hiệp định Pa-ri.

- Ở một khía cạnh nào đó, giữa các ông có những sự hiểu nhau, tương tác hoạt động cùng nhau không?

- Có lẽ về phương diện luật pháp, ông Huyền là người rất tinh tường, điều khiển phiên họp quốc hội hay thượng viện thì rất đàng hoàng. Ngày 29-4-1975, lúc đó là 6 giờ 30 phút sáng, tôi đi tìm Nguyễn Văn Huyền vừa được Tổng thống Dương Văn Minh mời làm Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm. Ông Huyền đang họp với liên danh thượng nghị sĩ Bông Huệ tại nhà La Thành Nghệ ở Công trường quốc tế (Hồ Con Rùa). Hỏi đã liên lạc với bên kia chưa, ông đáp: chưa, và yêu cầu tôi tiếp xúc với Trại Đa-vít thương lượng việc ngưng bắn, nếu có thể. Tôi nói sẽ đi với Nguyễn Văn Diệp - tổng trưởng kinh tế thương mại, mà tôi ngờ ông Diệp là người của bên kia. Vậy xin báo ngay với Dương Văn Minh là chúng tôi thi hành một nhiệm vụ chính thức, cốt để tránh tình trạng vô chính phủ, đập phá cướp bóc, chém giết trả thù, di tản hỗn loạn...

Chuyến đi không thành công, nhưng...

- Ông có thể nói về chuyến đi vào trại Đa-vít?

- Với tư cách Tổng trưởng, ông Diệp khéo léo điều đình ngừng bắn với phái đoàn quân sự bên kia! Tại cuộc gặp, ông Diệp giới thiệu là trưởng đoàn đại diện cho Nguyễn Văn Huyền - Phó Tổng thống phụ trách hòa đàm. Đầu (tôi - Nguyễn Đình Đầu) phó đoàn đại diện cho Tổng thống Dương Văn Minh. Hạnh và Cang (Nguyễn Văn Hạnh - nhà tư sản dân tộc, Tô Văn Cang - tổ chức tình báo chiến lược) là thành viên đoàn! Ông Diệp sáng chế như vậy mà không kịp hội ý các thành viên đoàn. Đoàn chúng tôi xin thông báo chính phủ Dương Văn Minh - Nguyễn Văn Huyền xin xem xét ngay việc ngưng bắn. Đại úy Tài xin vào trong lấy chỉ thị, lúc ấy đã 12 giờ trưa... Mươi phút sau, đại úy Tài đem ra một mảnh giấy nhỏ bằng ba ngón tay, viết đại ý hai điều: Phái đoàn quân sự của CPCMLTCHMNVN (viết tắt - Chính phủ của Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) không có chức năng đàm phán hay điều đình; chính quyền Sài Gòn hãy chấp nhận thi hành bản tuyên bố ngày 26-4-1975 của MTGPDTMNVN (viết tắt -Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam). Đại úy Tài yêu cầu tôi chép lại nội dung rồi lấy lại tờ giấy nhỏ ấy. Tài nói thêm, guồng máy quân sự đã chuyển động mạnh, khó ra lệnh ngưng chiến tức khắc, Sài Gòn nên chấp nhận tuyên bố 26-4-1975 của MTGP càng sớm càng tốt, nếu có thể nên trước 4 giờ (tức là 5 giờ - giờ Sài Gòn).

- Và tất yếu của lịch sử đã đến, hay vẫn giằng co?

- Ra khỏi trại Đa-vít, thấy trong chòi canh có điện thoại, tôi liền gọi ông Huyền báo cáo tình hình. Ông yêu cầu làm lời tuyên bố chấp nhận điều kiện của MTGP ra ngày 26-4-1975, tuy chưa biết đó là điều gì (sau này mới hiểu đó là quân đội phải giải giới, chính quyền giải thể).

Sau khi đưa Cang, Hạnh về, tôi về nhà ông Diệp, cơm nước qua loa rồi cùng nhau soạn thảo bài tuyên bố cho ông Huyền với tư cách Phó Tổng thống hòa đàm. Khoảng 16 giờ 30 phút, văn kiện làm xong, đánh ra bốn bản, ông Diệp giữ một, tôi giữ một làm tư liệu. Lấy xe riêng, tôi mang đến ông Huyền, ông coi vội rồi đem đến ông Dương Văn Minh thông qua, xong tới Đài phát thanh ghi âm, phát sóng.

Đó là cuộc chấp nhận hoàn toàn.

17 giờ, đài phát đi bản tuyên bố và còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Dù vậy, tiếng súng vẫn nổ, không khí vẫn sục sôi và vẫn có nhiều thương vong...

- Sau bản tuyên bố này, ông có gặp ông Minh?

- Trời bắt đầu tối, tôi mượn xe bạn cùng nhóm, đến hội ý với ông Huyền rồi cùng đi gặp ông Minh. Vào cổng sau dinh Độc Lập, thấy ông Minh một mình đứng giữa sân, trong nhà hầu như không còn ai, không khí hiu quạnh. Ba chúng tôi đứng giữa sân trao đổi thân tình, phần chính trị dân sự đã hết cách, nay là phần bên quân sự. Ông Minh bắt tay và cảm ơn, chúng tôi ra về mà lòng nao nao nặng trĩu.

- Kết thúc chiến tranh như thế, có nằm trong mong đợi của các ông lúc bấy giờ?

- Trên chiếc xe số 1 của phủ tổng thống - đúng là chiếc xe không sợ súng, tôi đi tìm ông Diệp và ông Cang, nhưng ông Cang đã vào Dinh. Xe qua tòa đại sứ Mỹ và Anh, cảnh tượng tan hoang thê thảm, quân trang quân cụ bỏ đầy đường, cành cây lá rụng lả tả, yên lặng bất ngờ giữa những làn đạn gầm thét, đôi lúc vẫn nghe tiếng chim kêu... Tôi không chứng kiến cụ thể diễn biến trong Dinh như ông Diệp, ông Cang. 11 giờ 30 phút, Đài phát thanh tuyên bố: Sài Gòn đã giải phóng. Đó là điều chúng tôi mong đợi: không tổn hại xương máu và đổ vỡ.

- Xin cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.