Nghịch lý phá rừng để… trồng rừng

Những năm qua, phong trào trồng rừng mới phát triển mạnh ở Bắc Kạn. Hoạt động này giúp xuất hiện nhiều tỷ phú, triệu phú, nên thu hút đông đảo người dân tham gia. Tuy nhiên, quỹ đất trồng cơ bản đã được phủ kín lại dẫn tới một hiện tượng éo le: phá rừng tự nhiên trái phép để… trồng rừng.
Hiện trường vụ phá rừng tự nhiên xảy ra tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn trong tháng 4/2023.
Hiện trường vụ phá rừng tự nhiên xảy ra tại xã Ngọc Phái, huyện Chợ Đồn trong tháng 4/2023.

Tỉnh Bắc Kạn có tổng diện tích đất lâm nghiệp là 417.539ha, trong đó có 27.593ha rừng đặc dụng, 83.465ha rừng phòng hộ và 306.481ha rừng sản xuất. Đất lâm nghiệp chiếm 86% tổng diện tích tự nhiên của Bắc Kạn. Đến cuối năm 2022, tổng diện tích đất có rừng là hơn 356.475ha.

Giai đoạn 2015-2020, bình quân mỗi năm Bắc Kạn trồng mới 10.000ha rừng. Từ năm 2020 đến nay, con số này ước đạt 5.000ha. Hiện tại, diện tích rừng trồng của tỉnh đã có hơn 101.247ha. Phần lớn các khu vực này được quy hoạch là rừng sản xuất, và những nơi đủ điều kiện để trồng rừng cũng đã phủ kín cây xanh.

Việc trồng rừng mới phần lớn là triển khai trồng lại sau khai thác và trồng phân tán. Tuy nhiên, do lợi nhuận từ việc trồng rừng sản xuất rất lớn, mà quỹ đất để trồng rừng không còn, hiện tượng phát, phá rừng tự nhiên (vốn đã được cấp sổ đỏ cho người dân hoặc giao cấp xã quản lý) để trồng rừng mới đã diễn biến phức tạp.

Ngày 15/2, Tổ tuần tra của UBND xã Hoàng Trĩ (Ba Bể) tiến hành kiểm tra khu vực rừng Khuổi Bốc, giáp ranh với thôn Phiêng Đén, xã Tân Lập và thôn Lũng Noong, xã Nam Cường (Chợ Đồn). Tổ đã phát hiện người dân xã Nam Cường lấn chiếm, phát, phá rừng để trồng cây lâm nghiệp với diện tích 6,7ha, thuộc quyền quản lý của UBND xã Hoàng Trĩ.

Ngày 20/3, cán bộ chuyên môn, kiểm lâm viên phụ trách địa bàn của hai xã Nam Cường và Hoàng Trĩ tiến hành kiểm tra tại khu vực rừng Lũng Noong, xã Nam Cường, (Chợ Đồn) tiếp tục phát hiện thêm hai lô đất rừng sản xuất bị phát mới với diện tích khoảng 1,4ha. Điều đáng nói là các đối tượng phát, phá rừng trái phép đều là những người dân sinh sống lân cận với mục đích trồng rừng làm kinh tế.

Khi tổng kết thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, tỉnh Bắc Kạn đánh giá: Các vụ phá rừng tập trung vào diện tích rừng tự nhiên có trữ lượng thấp hoặc rừng chưa có trữ lượng để lấy đất trồng rừng và trồng cây nông nghiệp khác vẫn còn ở mức cao, diễn biến phức tạp. Điều này khiến Bắc Kạn thường xuyên nằm trong nhóm các tỉnh có số vụ phá rừng cao trong cả nước, dù diện tích bị thiệt hại không lớn. Người dân phát, phá thủ công ở nhiều diện tích nhỏ, trung bình khoảng vài nghìn m2.

Tháng 12/2022, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn ban hành quyết định xử phạt hành chính đối với ông Hoàng Phúc Thành, thôn Bản Lù, xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới vì hành vi phá rừng tự nhiên ở Bản Lù trái phép, với diện tích bị thiệt hại là 3.809m2. Ông Thành bị phạt tiền hơn 137 triệu đồng, là số tiền rất lớn so đời sống của người dân ở Tân Sơn - xã nghèo, khó khăn bậc nhất của huyện Chợ Mới. Tang vật tịch thu là một cưa xăng và một con dao phát.

Bắc Kạn có rất nhiều vụ việc có tính chất, mức độ tương tự như vụ việc trên. Người dân bị phạt vì vi phạm, song cơ quan nhà nước cũng không thu được tiền phạt do người dân quá khó khăn. Theo Chi cục Kiểm lâm Bắc Kạn, từ năm 2017-2022, Bắc Kạn đã phát hiện và xử lý 2.983 vụ vi phạm (bình quân 497 vụ/năm), so giai đoạn năm 2011-2016 (bình quân là 650 vụ/năm) đã giảm 153 vụ/năm. Với 14 chuyên án đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, lực lượng Công an đã thụ lý, điều tra, xử lý 184 vụ án về các tội: Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản; hủy hoại rừng. Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính 117 vụ (giảm 113 vụ so giai đoạn 2011-2016). Mặc dù số vụ việc vẫn còn cao nhưng tính chất, mức độ của các vụ việc đã giảm dần.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này là việc chính sách và nguồn lực hỗ trợ bảo vệ rừng tự nhiên trong giai đoạn đóng cửa rừng hiện nay chưa phù hợp, kịp thời; chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân, chủ rừng. Một số hộ gia đình người dân sống gần rừng thiếu đất sản xuất, canh tác, chưa có nhiều hoạt động sinh kế từ rừng, hưởng lợi từ hoạt động bảo vệ rừng còn thấp, nên đã gây áp lực xâm hại đến rừng tự nhiên.

Theo UBND tỉnh Bắc Kạn, tỉnh đã giao khoán bảo vệ hơn 58.645ha rừng phòng hộ, hơn 16.638ha rừng sản xuất. Tuy nhiên, tỉnh mới chỉ bố trí được kinh phí để chi trả tiền giao khoán bảo vệ đối với diện tích chuyển tiếp thuộc các xã khu vực I (hơn 7.948ha). Những diện tích giao khoán các xã khu vực II, khu vực III vẫn bế tắc về kinh phí.

Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đang đóng cửa rừng tự nhiên, người dân được giao đất có rừng tự nhiên, nhưng chỉ được khai thác, sử dụng lâm sản ngoài gỗ, cho nên thu nhập của người dân sống gần rừng thấp. Kinh phí khoán từ nguồn của Chương trình bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020, nhưng hiện tại chương trình này đã kết thúc và vẫn đang chờ chương trình giai đoạn mới. Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số có hợp phần dành cho khoán bảo vệ rừng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, hiện chương trình này chưa triển khai cụ thể nên cũng chưa có kinh phí. Để khoán bảo vệ hết toàn bộ diện tích rừng tự nhiên, Bắc Kạn cần đến khoảng 100 tỷ đồng/năm. Một con số rất lớn.

Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn Đỗ Thị Minh Hoa, mức khoán bảo vệ hiện tại không tương xứng với công sức người dân và thời giá. Người dân sống gần rừng, giữ rừng, nhưng lại chưa được hưởng lợi từ rừng, dẫn tới mâu thuẫn giữa việc phát triển kinh tế với mục tiêu giữ rừng tự nhiên. Do vậy, tỉnh kiến nghị Trung ương cần nghiên cứu xây dựng chính sách khoán bảo vệ phải tương xứng để người dân yên tâm giữ rừng; đồng thời có quy định cụ thể phân loại rõ ràng những diện tích rừng nào được phép cải tạo, trồng bổ sung để người dân có cơ hội làm giàu từ rừng, từ đó phát triển kinh tế.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.