Học làm cha mẹ thời đại 4.0

Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất đối với sự phát triển của trẻ. Để chăm sóc, bảo vệ trẻ đúng cách, các bậc cha mẹ cũng phải học hỏi và liên tục cập nhật, nhất là trong thời đại số như hiện nay.
Nhiều cha mẹ đang loay hoay tìm các lớp học trực tuyến để hiểu và đồng hành cùng con tốt hơn. Ảnh: UNICEF
Nhiều cha mẹ đang loay hoay tìm các lớp học trực tuyến để hiểu và đồng hành cùng con tốt hơn. Ảnh: UNICEF

Kinh nghiệm và thực tế

Chương trình giáo dục mầm non ở Việt Nam bắt đầu tiếp nhận trẻ từ ba tháng tuổi. Tuy nhiên, trong cả nước rất hiếm các cơ sở nhà trẻ đủ điều kiện nhận trẻ trong độ tuổi từ ba đến sáu tháng. Phần lớn các nhà trẻ thường chỉ nhận khi trẻ đã đủ 18 tháng tuổi.

Theo Luật Lao động, nữ lao động được nghỉ thai sản trong sáu tháng. Như vậy, tối đa đến khi trẻ được sáu tháng tuổi người mẹ đã phải đi làm và đối diện với lựa chọn: một là thuê bảo mẫu, hai là nhờ ông bà, người chăm sóc trẻ ở tại gia đình. Ngày nay, một số ít phụ huynh lựa chọn làm việc online, hoặc làm tự do, như vậy họ có thời gian để tự chăm sóc con nhiều hơn.

Ngay cả khi trẻ đi học ở trường mầm non, ngoài giờ trên lớp, thời gian còn lại trẻ vẫn phát triển trong môi trường gia đình. Và gia đình cũng không thể phó mặc chuyện nuôi dạy con cho nhà trường, mà cần phối hợp với nhà trường trong việc nuôi dạy con cái.

Cha mẹ, người chăm sóc phần lớn không được đào tạo kiến thức nền về nuôi dạy trẻ em. Họ sử dụng kiến thức tự gom nhặt từ nhiều nguồn khác nhau: học hỏi kinh nghiệm nuôi con mà ông bà, người đi trước để lại; từ các sách về nuôi dạy con; từ các trang mạng xã hội, các hội nhóm của các cha mẹ tạo ra nhằm chia sẻ kiến thức, tìm kiếm sự giúp đỡ của mọi người trong kỹ năng nuôi dạy con; từ các khóa học ngắn hạn được quảng cáo;…

Kinh nghiệm có thể đúng, có thể sai, kiến thức chắp vá, không hệ thống khiến cho cha mẹ hoang mang, loay hoay, sử dụng phương pháp chồng chéo,… Thực tế đó cho thấy, công tác hỗ trợ, các lớp học dành cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ đang là nhu cầu bức thiết của xã hội.

Cũng bởi vậy, khoảng mấy năm gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện rất nhiều "chuyên gia tự phong" quảng cáo các khóa học làm cha mẹ diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Việc lan tỏa kiến thức nuôi dạy con đến cộng đồng là điều rất cần thiết, giúp cho cộng đồng nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, phụ huynh cần tỉnh táo trong hành trình gom nhặt kiến thức nuôi dạy con, bởi không ít chuyên gia, chương trình đào tạo hoàn toàn không có được sự thẩm định của cơ quan chuyên môn, đôi khi họ cũng bị trả giá bởi càng tham gia càng phải đóng nhiều chi phí dẫn tới cảm giác như bị "lừa gạt".

Với người chăm sóc trẻ thay thế tại gia đình, phần lớn họ là những người hết tuổi lao động, hoặc người không có trình độ, không có điều kiện kinh tế nên nhận công việc chăm sóc em bé để có thu nhập. Vốn dĩ họ không được đào tạo, mà chỉ sử dụng kinh nghiệm cá nhân, sự hướng dẫn của cha mẹ em bé để áp dụng. Điều đó tạo ra lỗ hổng rất lớn về chất lượng nhân lực tham gia quá trình nuôi dạy trẻ.

Từ thực trạng trên, các cơ sở giáo dục đại học, các trung tâm bồi dưỡng cần quan tâm mảng giáo dục kiến thức cho cha mẹ, người chăm sóc, tổ chức các hội thảo, chương trình đào tạo ngắn hạn để cha mẹ, người chăm sóc có nhiều nguồn học hỏi. Ngoài ra, những chuyên gia trong lĩnh vực này không chỉ có trách nhiệm giảng dạy trên giảng đường, nghiên cứu đề tài, mà còn cần tham gia quá trình đưa kiến thức đến cộng đồng bằng các kênh khác nhau giúp cha mẹ, người chăm sóc trẻ có nhiều cơ hội tiếp cận với những kiến thức khoa học mới.

Thay đổi để thích ứng

Song song hiện trạng đó, công nghệ, mạng xã hội len lỏi vào mọi ngóc ngách trong đời sống của trẻ, khiến cha mẹ càng khó có thể trở thành bạn với con.

Dễ nhận thấy, thao tác của trẻ với công nghệ rất nhanh, trẻ có thể chưa học chữ nhưng vẫn có thể tìm được trò chơi game, video YouTube, bài hát,… mà trẻ thích. Thậm chí, thao tác còn thuần thục và nhanh hơn người lớn. Điều này trẻ học được thông qua sự chủ động quan sát, bắt chước người lớn. Phản ứng của cha mẹ với hành vi này của trẻ có hai xu hướng.

Một là, khen con thông minh, giỏi, tự hào về con và có biểu hiện "khoe thành tích" của con về việc con sử dụng các thiết bị công nghệ với cộng đồng. Điều này dẫn đến hệ lụy cho đứa trẻ như: ảnh hưởng đến khả năng thị giác, khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, khả năng tương tác xã hội, kỹ năng tự phục vụ, ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa,... khiến rất nhiều trẻ sau đó phải đi can thiệp sớm tại các cơ sở can thiệp. Theo số liệu khảo sát được tại Công ty TNHH Giáo dục OED, 80% số trẻ đến can thiệp tại đây từng có thời gian dài tiếp cận quá nhiều với ti-vi, điện thoại. Trong phác đồ can thiệp với những trẻ này, bước đầu tiên chuyên gia cần làm là giúp phụ huynh nhận ra sai lầm của mình khi cho con tiếp cận quá nhiều với công nghệ và đưa biện pháp "cắt" công nghệ trong sáu tháng hay một năm để tập trung can thiệp theo phác đồ.

Đứng trước những hậu quả trên, nhiều phụ huynh nhận ra sai lầm của mình, họ tìm cách khắc phục nhưng đương nhiên gặp phải nhiều khó khăn trong hành trình "cai nghiện công nghệ" cho con mình.

Hai là, kiên quyết không cho con xem ti-vi, điện thoại nhiều. Họ không tẩy chay mà cho con tiếp cận công nghệ có kiểm soát, có chọn lọc, có sự đồng hành của người lớn. Họ là những bậc cha mẹ có kiến thức về nuôi dạy con. Họ biến công nghệ trở thành phương tiện để giáo dục con hiệu quả. Những đứa trẻ trong môi trường gia đình như vậy sẽ học hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Tuy nhiên, số lượng cha mẹ thuộc xu hướng này rất hiếm.

Với trẻ dưới một tuổi, có thể cho con tiếp cận công nghệ 30 phút mỗi ngày, chia nhỏ thời gian, có sự hướng dẫn của người lớn. Với trẻ một, hai tuổi, có thể cho con tiếp cận công nghệ khoảng 45 phút/ngày. Với trẻ hơn hai tuổi, có thể cho con tiếp cận công nghệ khoảng 60 phút/ngày, và luôn theo nguyên tắc chia nhỏ thời gian, có người lớn đồng hành và tập trung vào các nhiệm vụ giáo dục. Không nên để trẻ chơi tự do, không nên để trẻ chơi với lượng thời gian dài. Với trẻ lớn hơn, thời lượng sử dụng có thể khó kiểm soát hơn, do đó, phụ huynh có thể lựa chọn đồng hành cùng con khi tiếp cận với công nghệ, mạng xã hội, và tăng các hoạt động tương tác với môi trường bên ngoài để phân tán sự chú ý, đồng thời cho các bạn nhận biết được những giá trị chung quanh, tích lũy được kinh nghiệm, nhận định được đúng sai. Sau đó, mang lớp "màng lọc" đó chống chọi với những tác hại trực tuyến và trực tiếp.

Công nghệ không hoàn toàn xấu đối với trẻ, mà luôn có hai mặt. Chúng ta cần học hỏi kiến thức nuôi dạy con, lựa chọn những chương trình giáo dục hữu ích, phù hợp với độ tuổi để giáo dục con.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.