Giáp Tết, về làng hương nghe chuyện làm thương hiệu

Thắp hương trầm ngày Tết là một phong tục đẹp trong văn hóa của người Việt từ xa xưa. Nói đến hương trầm, không thể không nhắc đến hương trầm Quỳ Châu, huyện miền tây của tỉnh Nghệ An. Quanh năm, nơi đây luôn sôi động không khí sản xuất, kinh doanh, song nhộn nhịp nhất vẫn là vụ Tết.
Các cơ sở chuẩn bị lượng hàng lớn phục vụ dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ.
Các cơ sở chuẩn bị lượng hàng lớn phục vụ dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ.

Thu nhập ổn định, nghề phụ thành nghề chính

Ở huyện Quỳ Châu, có nhiều bản, làng sản xuất hương trầm. Trong đó, thị trấn Tân Lạc là nơi tập trung nhiều cơ sở sản xuất hơn cả. Về Tân Lạc những ngày này, khắp các con đường thoang thoảng mùi hương, xen lẫn âm thanh rộn ràng từ các xưởng sản xuất.

Gia đình bà Trần Thị Loan (khối 2, thị trấn Tân Lạc), là một trong những cơ sở sản xuất hương trầm nổi tiếng. Hai tháng nay, ngày nào ở xưởng hương của bà Loan cũng có khoảng 20 nhân công làm việc liên tục. Thoăn thoắt cuốn từ que hương này đến que hương khác, bà Loan cho biết: Nguyên liệu chính để làm hương trầm là rễ cây hương bài, có mùi thơm dịu, mọc nhiều ở vùng núi Nghệ An. Sau khi lấy về, đem rửa sạch, phơi khô, rồi nghiền nát thành bột mịn để trộn làm bột hương. Ngoài rễ cây hương bài, nguyên liệu làm hương trầm còn bao gồm các loại hoa hồi thảo quả, quế chi, trầm xô, bã mía và một vài vị thảo mộc đặc biệt được giữ làm bí quyết.

Hương trầm Quỳ Châu có nhiều kích cỡ, nhưng một điểm chung là có vẻ bề ngoài mộc mạc. Khi đốt lên, hương cháy đượm, mùi hương thoang thoảng, dễ chịu, mang lại cảm giác ấm cúng, an nhiên. Để cây hương cháy đều, ngay từ đầu mùa hè, khi thời tiết nắng ráo, các cơ sở đã mua nứa về, sơ chế qua nhiều công đoạn (ngâm, phơi khô...) để làm chân hương.

Trước đây, nghề làm hương trầm ở thị trấn Tân Lạc nói riêng, huyện Quỳ Châu nói chung được xem như một nghề phụ của bà con nông dân trong lúc nông nhàn. Nhưng nay, nghề làm hương đã trở thành nghề chính, mang lại thu nhập ổn định cho nhiều hộ gia đình. Nhờ thu nhập khá, nghề đang “giữ chân” nhiều lao động, trong đó có lao động trẻ.

Với tâm niệm, làm hương không chỉ vì thu nhập, mà còn mang giá trị truyền thống, tâm linh tốt đẹp, người dân nơi đây rất cẩn thận trong từng công đoạn, từ lúc chuẩn bị nguyên liệu cho đến lúc đóng gói thành phẩm, dán nhãn mác… Chị Hà Thị Tuyết, công nhân xưởng sản xuất hương trầm Hà Loan cho hay, trung bình mỗi ngày, chị cuốn được khoảng 3.000 cây hương loại dài 40cm và 60cm, khoảng 300 cây thuộc loại dài 150cm, mang lại thu nhập dao động từ 280.000-350.000 đồng.

Sinh ra trong một gia đình gắn bó với nghề làm hương đã gần 40 năm, chị Nguyễn Thị Vân, chủ cơ sở sản xuất hương trầm Bình Minh chia sẻ: Giờ đây, nhiều công đoạn được làm bằng máy móc nên rút ngắn thời gian, nhưng để bảo đảm chất lượng, khâu cuốn hương vẫn phải được thực hiện bằng tay. Chị Vân luôn tâm niệm cần phải giữ gìn thương hiệu, không đánh đổi chất lượng, uy tín hương trầm Quỳ Châu vì những lợi ích trước mắt. Có những năm giá chi phí đầu vào tăng cao, nhưng không vì thế mà gia đình chị cắt giảm bớt số lượng hay chất lượng nguyên liệu.

Ông Võ Thái Tịnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Lạc, cho biết: Những năm gần đây, sản phẩm hương trầm truyền thống của địa phương phải cạnh tranh gay gắt với các loại hương khác, được sản xuất theo thị hiếu thị trường, như hương cuốn tàn hay đậu tàn. Tuy nhiên, nhờ tuân thủ nghiêm ngặt bí quyết gia truyền, hương trầm Quỳ Châu vẫn giữ được chỗ đứng vững chắc. Nhiều tháng nay, hoạt động sản xuất hương rất sôi động. Ngoài các sản phẩm truyền thống như hương thẻ, làng nghề còn sản xuất các sản phẩm mới như hương nụ, hương vòng… Đặc biệt, nhiều cơ sở sản xuất hương đã sử dụng mạng xã hội Facebook, Zalo… để quảng bá, giao dịch sản phẩm hương của gia đình mình.

Để thương hiệu vươn xa

Không chỉ thị trấn Tân Lạc, mà các làng nghề sản xuất hương trầm khác trên địa bàn huyện Quỳ Châu cũng đang hết sức nhộn nhịp. Trên nhiều tuyến đường liên xã, liên huyện, dễ dàng bắt gặp đủ loại phương tiện vận chuyển hương, từ xe ô-tô tải, đến xe máy, xe ba gác…

Ông Lương Văn Hoành, bản Hạnh Tiến (xã Châu Hạnh) cho hay: “Tết này, cơ sở của tôi dự kiến cung cấp ra thị trường hơn 1.000 thùng hương. Để kịp giao hàng, 15 lao động đang làm cả ngày, cả đêm”. Cạnh xưởng của ông Hoành, cơ sở sản xuất của chị Nguyễn Thị Uyên cũng đang “chạy đua” với Tết, 12 lao động đang miệt mài cuốn hương, đóng gói…

Theo ông Sầm Anh Dũng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Châu Hạnh, làng nghề Hạnh Tiến có hơn 20 hộ làm nghề hương trầm, tạo việc làm ổn định cho khoảng 200 lao động địa phương. Để phát triển nghề truyền thống quý báu này, chính quyền địa phương luôn khuyến khích người dân từng bước đổi mới trang thiết bị sản xuất để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. “Đặc biệt, có một thứ bất di bất dịch từ bao đời nay, là người dân luôn ý thức gìn giữ thương hiệu của làng nghề”, ông Dũng nhấn mạnh.

Hương trầm được xác định là một trong những sản phẩm chủ lực của huyện, mang lại giá trị kinh tế cao, giải quyết việc làm thường xuyên cho nhiều lao động địa phương. Trên địa bàn huyện có nhiều thôn, bản sản xuất hương trầm, nhưng đến nay, có hai địa phương được công nhận là làng nghề truyền thống, gồm: bản Hạnh Tiến, xã Châu Hạnh và thị trấn Tân Lạc. Huyện Quỳ Châu đã xây dựng kế hoạch để giúp nhiều hộ dân có điều kiện làm giàu tại địa phương.

Ông Nguyễn Tiến Hùng, Trưởng phòng Kinh tế-Hạ tầng huyện Quỳ Châu chia sẻ: Sản phẩm hương trầm của huyện được phân phối rộng khắp cả nước, được người tiêu dùng ưa chuộng. Dịp Tết năm nay, các cơ sở dự kiến cung cấp ra thị trường hơn 99 triệu cây hương. Để phát triển hơn nữa nghề truyền thống, địa phương đang tập trung quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu, phấn đấu trong khoảng 5 năm nữa, sẽ chủ động được 70% nguyên liệu tại địa phương.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.