Giải pháp đưa "cung" đến với "cầu"

Hiện nay, nhu cầu nhân lực ngành Công tác xã hội nói chung, công tác xã hội học đường nói riêng là rất cao. Nhưng nghịch lý thay, trong khi nhu cầu của thị trường là có, sinh viên chuyên ngành được đào tạo bài bản ra trường lại chật vật tìm việc, thậm chí phải lựa chọn rẽ hướng khác.
Trường đại học Lao động-Xã hội cơ sở II là một trong số ít các trường đào tạo ngành công tác xã hội.
Trường đại học Lao động-Xã hội cơ sở II là một trong số ít các trường đào tạo ngành công tác xã hội.

MỖI khi tuyển sinh, cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp là một trong những điều kiện tiên quyết để sinh viên lựa chọn ngành đại học. Trong đó, sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội có thể làm việc trong các tổ chức kinh tế-chính trị-xã hội, tổ chức đoàn thể quần chúng ở các cấp từ trung ương đến địa phương; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội, giáo dục, pháp luật, tín ngưỡng, tôn giáo, môi trường, an sinh xã hội, dân số, sức khỏe, truyền thông,… Làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước với vai trò là người hỗ trợ, tham mưu cho tổ chức, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công nhân viên; làm việc tại bệnh viện với vai trò hỗ trợ cho y, bác sĩ, hỗ trợ chính sách cho người bệnh;…

Nhìn chung, ta có thể nhận thấy cơ hội cho cử nhân ngành Công tác xã hội là rất rộng.

Sau khi Đề án 32 (Quyết định 32/2010/QĐ-TTg) được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25/3/2010, về việc phê duyệt "Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020", đến nay các cơ sở đào tạo chuyên ngành Công tác xã hội cũng nở rộ cả về chất và lượng. Tính đến hiện tại, cả nước có: 55 cơ sở đào tạo ngành Công tác xã hội ở trình độ cao đẳng và trình độ đại học, năm cơ sở đào tạo ngành Công tác xã hội ở trình độ thạc sĩ và hai cơ sở đào tạo ở trình độ tiến sĩ.

Về chương trình đào tạo, mỗi cơ sở đều có chương trình riêng, tuy nhiên, các chương trình đều có học phần chuyên ngành tương đương nhau để bảo đảm mục tiêu chuẩn đầu ra, có thể kể đến một số học phần như: tâm lý học đại cương, hành vi con người và môi trường xã hội, công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội trong trường học, tham vấn, an sinh xã hội,…

Qua quan sát thực trạng đào tạo sinh viên ngành Công tác xã hội trong các cơ sở đào tạo, nhiều vấn đề được nhìn nhận. Về lý thuyết, sinh viên được trang bị kiến thức, thái độ để có thể đáp ứng nhu cầu công việc sau khi ra trường. Dù sinh viên chuyên ngành nắm sát kiến thức cơ bản, nhưng khi tiếp cận các lĩnh vực chuyên sâu với các đối tượng đặc thù như trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật... thì còn thiếu kiến thức thực tiễn.

Về cách thức đưa sinh viên đi thực tập, ngành Công tác xã hội cũng thực hiện tương tự như các ngành đào tạo khác. Một số trường liên kết với các đơn vị trung tâm để đưa sinh viên đến thực tập, bên cạnh đó cũng có các cơ sở đào tạo để sinh viên tự chủ động tìm kiếm cơ sở thực tập cho riêng mình. Đề cương thực tập, các nhiệm vụ sinh viên cần đạt được trong quá trình thực tập được nêu rõ, tuy nhiên khó tránh khỏi tình trạng cơ sở thực tập chưa tạo cơ hội cho sinh viên tham gia nhiều vào các công việc chuyên môn, hoặc còn nới lỏng quá trình thực tập khiến sinh viên chưa học được những kỹ năng nghề cần có.

Trong khi đó, công tác xã hội đã được nhìn nhận như một ngành nghề chính thức phải đối mặt không ít khó khăn và đôi khi còn gặp sự cố, nhưng những người làm ngành này lại luôn phải giữ cho mình có một tâm nguyện là mang đến những điều tốt đẹp cho người bệnh, người yếm thế, người khó khăn bằng thái độ chuyên nghiệp nhất, nên rõ ràng thực hành, thực tập, va chạm thực tế là rất cần thiết đối với sinh viên trước khi ra trường.

Bên cạnh đó, việc xây dựng và tổ chức các chương trình ngày hội việc làm để giới thiệu công việc cho sinh viên ngành Công tác xã hội cũng chưa được triển khai nhiều. Vì thế, không ít sinh viên học xong vẫn mơ hồ không biết làm gì, dẫn đến việc họ đi xin việc bất cứ nơi nào có đăng tin tuyển dụng miễn họ được chấp nhận là đồng ý đi làm. Khi tiếp nhận công việc, do không được đào tạo bài bản đúng chuyên ngành, cộng với tâm lý chưa ổn định trong việc lựa chọn nghề khiến tình trạng lực lượng lao động trẻ "nhảy việc" thường xuyên, gây ra báo động lớn cho các đơn vị doanh nghiệp. Trong khi đó, mảng Công tác xã hội vẫn thiếu nhân lực.

TỪ các vấn đề nêu trên, để tránh tình trạng sinh viên ngành Công tác xã hội đi làm trái ngành sau khi ra trường, cần thiết phải đưa ra đồng bộ một số giải pháp.

Trước hết, về phía cơ sở đào tạo cần có biện pháp siết chặt công tác kiến tập, thực tập, theo sát sinh viên trong quá trình kiến tập, thực tập để sinh viên được trang bị kỹ năng vững chắc trước khi ra trường; cơ sở thực tập cần nhấn mạnh việc lồng ghép kiến thức thực tế vào bài học của từng học phần nhằm giúp sinh viên tạo dựng lòng yêu nghề, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp. Cùng đó cần có tiêu chí đánh giá về quá trình rèn luyện phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp trong xét điều kiện tốt nghiệp.

Thứ hai, cần có các chính sách ưu đãi hơn nữa dành cho những người làm trong ngành Công tác xã hội. Truyền thông những thông tin về chế độ, công việc, nhu cầu việc làm trong lĩnh vực này lên các kênh thông tin truyền thông để lực lượng lao động ngành Công tác xã hội mới ra trường có thể nắm được thông tin. Các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực này cũng có thể có các chương trình truyền thông mạnh mẽ để cộng đồng biết tới công việc của họ, nâng cao nhận thức của cộng đồng về lĩnh vực này.

Chắc chắn, những giải pháp trên là chưa đủ nhưng sẽ tác động phần nào để hạn chế tình trạng sinh viên ngành Công tác xã hội ra trường phải đi làm trái ngành, trái lĩnh vực chuyên môn, trong khi nhu cầu xã hội đang rất cần nguồn nhân lực này.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.