Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Định giá và quyền sử dụng đất trong thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Những yêu cầu về định giá phù hợp với thị trường, hài hòa mục tiêu phát triển các công trình hạ tầng xã hội với các mục tiêu phát triển tư nhân, hài hòa trong đền bù giải tỏa... đang là các câu hỏi cụ thể cho việc xây dựng bản dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), hy vọng được Quốc hội thông qua trong năm 2023.
Với tính chất dễ biến động, thị trường bất động sản cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ảnh: TRUNG HIẾU
Với tính chất dễ biến động, thị trường bất động sản cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ảnh: TRUNG HIẾU

Thị trường bất động sản tại thời điểm hiện nay so với năm 1993, đã có sự thay đổi về cả chất lượng và số lượng. Trước kia, khi nói đến thị trường bất động sản, quan niệm thông thường, phổ biến chỉ đề cập đến đất ở đô thị. Còn tại thời điểm hiện nay, thị trường không chỉ là đất ở đô thị, mà còn trải rộng từ thị trường đất rừng, đất nông nghiệp cho đến thị trường đất công nghiệp... với đủ loại sản phẩm từ nhà ở cao tầng, thấp tầng, condotel, shoptel, villatel, v.v.

Vậy những thay đổi về lực lượng sản xuất này đã được phản ánh thế nào trong quan hệ sản xuất của lĩnh vực đất đai? Hãy cùng phân tích theo các câu hỏi đang được nêu ra đóng góp cho bản dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), phiên bản trình Hội nghị Đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhiệm kỳ khóa XV vào ngày 30/8 vừa qua.

Ðịnh giá trong thị trường nào và cho mục đích sử dụng nào?

Từ trước đến nay, chúng ta giả định rằng, một lô đất có một giá quyền sử dụng đất nào đó. Mục tiêu soạn thảo cũng như tranh luận lâu nay làm sao tìm được giá đó chính xác?

Mỗi thị trường có nguyên tắc định giá khác nhau, đương nhiên số liệu đầu vào tính toán khác nhau. Mục tiêu sử dụng số liệu, giá đất khác nhau thì giá cũng phải được định giá khác nhau và với độ chính xác yêu cầu khác nhau.

Thí dụ, định giá đất sản xuất nông nghiệp, chủ yếu tập trung vào đánh giá mức độ tạo lợi nhuận khi canh tác, khác với định giá đất ở khi đầu tư thương mại. Định giá để phục vụ thu hồi đất, chắc chắn phải tính đến các chi phí bảo vệ đất, quyền lợi của người sử dụng đất hiện tại, khác với định giá tài sản phát triển ở thì tương lai.

Trong định giá đất ở, sự khác biệt cũng rất rõ ràng theo từng mục đích sử dụng. Nếu định giá với mục tiêu để thế chấp vay vốn, thông lệ sẽ được vay hạn mức khoảng 70% giá trị thửa đất, thì độ chính xác của việc định giá này khác hoàn toàn với định giá để dùng làm giao dịch.

Khi mà Luật chưa làm rõ vấn đề trên, thì rất khó để người dân phân định và chấp nhận rằng, một thửa đất có thể có rất nhiều giá khác nhau tùy vào thị trường nào, mục tiêu sử dụng là gì? Thí dụ giá áp dụng thu hồi đất nông nghiệp chỉ 1,5 triệu/m2 nhưng sau đó cũng chính mảnh đất đó được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở đô thị và bán ra thị trường là 20-30 triệu/m2 thậm chí cao hơn nữa. Chính sự chênh lệch quá cao dẫn đến nhiều hệ lụy xã hội, là nguyên nhân chính dẫn đến khiếu kiện.

Đương nhiên khó khăn trong thu hồi đất còn có nhiều nguyên nhân khác liên quan như: Làm sao điều tiết được chênh lệch địa tô cho các bên liên quan; phân bổ lợi nhuận quá lớn của nhà phát triển... Những vấn đề này chỉ giải quyết được ở phạm vi bộ luật khác chứ không thể trong phạm vi của nội dung 1-2 điều về định giá quyền sử dụng đất như dự thảo.

Điều 158, khoản 2 mục a, về nguyên tắc định giá sẽ phải điều chỉnh không chỉ định giá mục đích sử dụng đất, theo thời hạn sử dụng đưa ra định giá mà còn cả mục tiêu sử dụng kết quả định giá.

Ðịnh giá sát thị trường?

Trước hết phải làm rõ thị trường là nơi có cung, có cầu, tạo thành mua bán, và các bên mua bán tự do thực hiện giao dịch. Đương nhiên không đề cập đến mức yêu cầu có thị trường tự do hoàn hảo nhưng, trước hết phải có thị trường.

Thị trường là môi trường biến động, thay đổi không ngừng. Do vậy nếu tìm cách để định giá ra một con số sát thị trường là điều không tưởng. Con số ngày hôm nay nhưng ngày mai đã khác. Lấy số liệu giao dịch, giả sử trước đây ba tháng có giao dịch, thì số liệu này cũng chỉ tham khảo vì thị trường đã thay đổi. Cho nên, khi quy định thông tin đầu vào để xác định giá đất trong vòng 24 tháng, điểm c, khoản 3, Điều 158 là không hợp lý.

Với yêu cầu định giá ở những nơi đã có thị trường thì quy định những phương pháp tính như dự thảo luật là phù hợp. Tuy nhiên, với những nơi chưa có thị trường, thì cần có quy định như, ít hơn ba giao dịch được ghi nhận trong một tháng... thì sử dụng các giá do tính toán trên cơ sở bảng giá Nhà nước xây dựng là hợp lý. Còn khi có nhiều hơn ba giao dịch/tháng..., mới cần áp dụng các phương pháp định giá thị trường.

Nơi nào có thị trường?

Thị trường bất động sản Việt Nam phát triển về quy mô, nhưng trên hơn 10.600 xã/phường thì có những khu vực nào được gọi là đã có thị trường? Chưa có số liệu thống kê chính xác, nhưng chắc chắn chỉ một số thành phố lớn, huyện lỵ sôi động có thể có đủ số liệu giao dịch làm mẫu so sánh định giá.

Ban soạn thảo cũng đã biết rõ vấn đề này nên mới đưa ra nhiều phương pháp định giá, phù hợp với từng điều kiện dữ liệu cho phép. Nghĩa là ban soạn thảo thừa nhận có nơi có, có nơi chưa có thị trường.

Ngay cả khi đề cập có đủ điều kiện ba mẫu so sánh như khoản 3, Điều 158 của bản dự thảo, thì về lý cũng chẳng nói lên rằng khu vực này đã có thị trường hay chưa có thị trường. Trong thực tế, có cả 4-5 thửa đất so sánh nhưng chỉ cần khác về diện tích, đã đủ gây khó khăn cho cán bộ định giá.

Đối với thị trường, không có khái niệm chính xác tuyệt đối, mà chỉ có sự thuận mua vừa bán, giá phù hợp với kỳ vọng bên mua, bên bán.

Tư liệu sản xuất hay là hàng hóa?Thu hồi đất phục vụ các dự án quy hoạch phát triển là thí dụ điển hình cho "mâu thuẫn là tiền đề cho phát triển".

Về lý thuyết, thị trường sẽ điều chỉnh bẻ lái nguồn lực vào khu vực nào để xã hội có lợi nhất. Tuy nhiên, sẽ cần rất nhiều thời gian lẫn nhiều tổn thất cho xã hội khi để "bàn tay vô hình" thị trường tự điều chỉnh một cách tự do. Quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng chi tiết là những bản quy hoạch mà Nhà nước can thiệp, định hướng để phát triển thị trường bất động sản.

Bỏ qua vấn đề về chất lượng quy hoạch, mục tiêu phục vụ số đông hay số ít, đáp ứng các mục tiêu xã hội ra sao..., điều kiện tiên quyết định giá đền bù là phải hợp lý, hài hòa được quyền lợi các bên thì mới phát triển được dự án.

Phân loại có quyền sử dụng đất là tư liệu sản xuất hoặc là hàng hóa không phải giải pháp triệt để. Lúc đó mâu thuẫn lại chuyển qua vấn đề khi nào thì được coi là hàng hóa và khi nào được coi là tư liệu sản xuất? Đối với thị trường thì cái gì đưa vào "chợ" đều coi là hàng hóa, còn cấm đưa vào "chợ" thì trở lại thời kỳ "ngăn sông cấm chợ" không ai mong muốn.

Thửa đất nào là tiêu chuẩn?

Khoản 2, Điều 159 đề cập "Đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất thì phải xây dựng bảng giá đất đến từng thửa đất trên cơ sở vùng giá trị, thửa đất chuẩn".

Trong bản dự thảo, có đề cập đến một giải pháp kỹ thuật là xây dựng bản đồ giá đất trên cơ sở bản đồ địa chính và thửa đất tiêu chuẩn. Việc quy định như thế, gắn chặt với bản đồ địa chính số, thứ mà không phải chỗ nào cũng có, hoặc có thì cũng không chắc chắn được cập nhật là không nên. Trong lịch sử bản đồ giá đất đã được Napoleon xây dựng từ thời kỳ chiến tranh châu Âu, khi mà cần phải thu thuế đất phục vụ chiến tranh.

Do đó, dự thảo luật không nên quy định cụ thể gắn chặt với các giải pháp kỹ thuật xử lý, liên quan thế nào là bản đồ số, thế nào là thửa đất tiêu chuẩn. Điểm cần đưa vào luật là quy định về việc thu thập, lưu trữ và quản lý các dữ liệu liên quan đến thửa đất, liên quan đến phục vụ định giá. Đây chính là hướng đi đúng cho mọi quốc gia, khi lưu trữ dữ liệu trước, xử lý sau. Công nghệ xử lý dữ liệu lớn còn được biết đến với tên gọi Big data, là nền tảng cho các thuật toán công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI).

Quyền sử dụng đất

Trong khi lực lượng sản xuất thay đổi về chất, phát triển không ngừng, quyền sử dụng đất không có quá nhiều thay đổi từ phiên bản đầu tiên. Ngoại trừ thêm "Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình" ở khoản 5, Điều 26, bản dự thảo. Dù vậy, trong dự thảo chưa đề cập đến sẽ được bảo hộ ra sao?

Quy định người sử dụng đất có quyền được hưởng khi Nhà nước đầu tư tại khu vực chỉ đề cập đến tình huống đầu tư nông nghiệp, khoản 3, Điều 166 Luật Đất đai 2013, hoặc Điều 26 dự thảo Luật Đất đai 2023.

Vì sao người sử dụng đất chỉ được hưởng lợi khi Nhà nước đầu tư nông nghiệp? Còn các đầu tư khác thì không được hưởng lợi? Trong phân tích tài chính đất đai, luôn có mục chi phí giữ đất (holding cost). Vậy khi phát triển, thu hồi đất, những chi phí này cần được ghi nhận. Những người sử dụng đất hiện tại là người bảo vệ đất đai, dù Nhà nước đầu tư gì đi nữa, những người đang sản xuất bảo vệ ở khu vực đó phải được cùng hưởng lợi.

Khi làm rõ được quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ quyền sử dụng đất cũng là khi làm rõ được định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tác động thế nào lên các quyền và nghĩa vụ. Có thể sẽ có nhiều nghĩa vụ với cộng đồng xã hội hơn, có thể sẽ được nhiều bảo vệ từ xã hội hơn?

Những thành công trong thay đổi về quan niệm sở hữu tập thể, tư nhân, sở hữu quyền sử dụng đất đã mang lại nhiều thành quả vượt bậc trong phát triển kinh tế-xã hội. Luật Đất đai cần có nhiều chỉnh sửa sâu rộng, nhiều cách tiếp cận mới, với nền tảng lý luận sâu sắc về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều nội dung sửa đổi có thể không phản ánh kịp trong một lần sửa đổi, nhưng cần đề ra được lộ trình tổng thể mang tính hệ thống cho nhiều lần chỉnh sửa.

Định hướng xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, mục tiêu cho cộng đồng xã hội cần được thể hiện rõ hơn trong quyền và nghĩa vụ của Luật Đất đai, đó là điểm đặc sắc và ưu thế của xã hội chúng ta.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.