(Ảnh: THÀNH ĐẠT)
(Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Dân tộc Chơ Ro

Dân tộc Chơ Ro với số dân gần 30.000 người, sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Hiện cuộc sống của người Chơ Ro ngày càng khởi sắc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

1. Nguồn gốc lịch sử:

Người Chơ Ro cư trú lâu đời ở vùng đồi núi thấp, nằm về phía đông nam của tỉnh Đồng Nai và một phần ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.

2. Dân số:

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019, Dân tộc Chơ Ro có: 29.520 người, trong đó dân số nam là 14.822 người và dân số nữ là 14.698 người. Quy mô hộ: 4,0 Người/hộ. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 91,2%.

Cách làm bánh truyền thống của người Chơ Ro (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Cách làm bánh truyền thống của người Chơ Ro (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

3. Phân bố địa lý:

Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc. Rải rác tại tỉnh Sông Bé và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống.

4. Ngôn ngữ:

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), thuộc chi miền núi phía Nam, khá gần gũi với tiếng nói của các tộc người Xtiêng, Mạ, Cơ-ho, song lượng từ Khơ-me trong tiếng Chơ Ro khá nhiều. Trước đây người Chơ Ro chưa có chữ viết riêng. Một số nhà truyền giáo đã phiên âm tiếng Chơ Ro qua hệ tiếng La-tinh.

Giáo dục: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019: Tỷ lệ người Chơ Ro từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông: 81,7%; Tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học: 101,7%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở: 72,7%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông: 36,8%; Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường: 23,6%; Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình: 4,9%.

Cách trỉa lúa truyền thống của người Chơ Ro (Ảnh: Làng Văn hóa-Du lịch các Dân tộc Việt Nam)
Cách trỉa lúa truyền thống của người Chơ Ro (Ảnh: Làng Văn hóa-Du lịch các Dân tộc Việt Nam)

5. Đặc điểm chính:

Trang phục: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương.

Nhà ở: Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.

Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.

Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.

Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.

Nhà truyền thống của dân tộc Chơ Ro (Ảnh: Làng Văn hóa-Du lịch các Dân tộc Việt Nam)
Nhà truyền thống của dân tộc Chơ Ro (Ảnh: Làng Văn hóa-Du lịch các Dân tộc Việt Nam)

Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.

Lễ Tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.

Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.

Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.

6. Điều kiện kinh tế:

Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Hiện người Chơ Ro đã định canh định cư, chủ yếu canh tác lúa nước kết hợp với trồng cây công nghiệp, cây ăn trái và cây màu. Họ đã biết phát triển sản xuất như mua máy móc phục vụ lao động trồng trọt, sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu...

Người Chơ Ro có: Tỷ lệ hộ nghèo 4,2%; Tỷ lệ hộ cận nghèo: 5,5%; Tỷ lệ thất nghiệp: 1,55%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ: 26,6%; Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp: 56,3%; Tỷ trọng lao động làm công việc quản lý hoặc CMKT bậc cao và trung: 1,2%; Tỷ lệ hộ làm nghề thủ công truyền thống: 0,01%.

● Français: L’ethnie Chơ Ro

● English: Cho Ro ethnic minority group

- Các dân tộc ở Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật) - Đặc trưng cơ bản của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 (Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê) - Website Ủy ban Dân tộc

Có thể bạn quan tâm

Thầy cúng thực hiện nghi lễ cầu mùa, cầu an – trung tâm của lễ hội Khô Già Già.

Khô Già Già – Di sản văn hóa ở vùng cao Bát Xát

Lễ hội Khô Già Già là hoạt động văn hóa tâm linh quan trọng nhất trong năm của đồng bào Hà Nhì đen tại xã Bát Xát, tỉnh Lào Cai (trước sáp nhập là xã Y Tý, huyện Bát Xát). Đây là dịp để cộng đồng thể hiện lòng biết ơn đối với trời đất, thần linh và tổ tiên; cầu mong mùa màng tốt tươi, bản làng yên ấm.

Giấy bản được dùng để ghi chép tri thức dân gian, lễ nghi và phong tục, lưu giữ những ký ức văn hóa cộng đồng.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Chủ homestay Bản Liền Vàng Thị Thông: “Gia đình Haha là kỷ niệm đẹp nhất đời của chúng tôi”

Chủ homestay Bản Liền Vàng Thị Thông: “Gia đình Haha là kỷ niệm đẹp nhất đời của chúng tôi”

Những ngày qua, Bản Liền (Bắc Hà, Lào Cai) là địa danh được biết đến và tìm kiếm nhiều nhất trên mạng xã hội nhờ hiệu ứng của Chương trình Gia đình Haha. Chương trình đã để lại những ấn tượng và cảm xúc đặc biệt không chỉ cho những người tham gia, mà còn cả cho khán giả, và mở ra một chặng đường mới cho bà con người Tày ở đây.

Một góc thung lũng Lâm Thượng bên dòng Khuổi Nọi.

Mùa xanh ở thung lũng Lâm Thượng

Dưới nếp nhà sàn mộc mạc bên dòng suối mát, từ những cánh đồng tốt tươi chuyển mình theo mùa cho đến bữa cơm ấm áp trong điệu then ngọt ngào, văn hóa Tày ở thung lũng Lâm Thượng (Lào Cai) đang được giữ gìn và lan tỏa bởi chính những người con quê hương.

Bạc được kéo thành sợi, nguyên liệu thô cho các công đoạn chế tác vòng cổ, vòng tay và xà tích.

[Video] Chạm bạc - nghề thủ công gắn với bản sắc đồng bào Nùng

Giữa những thửa ruộng bậc thang hùng vĩ ở Hoàng Su Phì, tỉnh Tuyên Quang (trước đây là tỉnh Hà Giang), nghề chạm bạc truyền thống của đồng bào Nùng tại xã Pờ Ly Ngài vẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Không chỉ là sinh kế, nghề còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng, tổ tiên và niềm tự hào về cội nguồn.

Lễ Tủ Cải của cộng đồng người Dao đầu bằng, tỉnh Lai Châu. (Ảnh: VŨ LINH)

Lễ Tủ Cải của người Dao đầu bằng ở Tam Đường: Dấu mốc trưởng thành và bản sắc văn hóa

Trong đời sống cộng đồng người Dao đầu bằng tại Tam Đường, tỉnh Lai Châu, lễ Tủ Cải là nghi lễ đánh dấu bước trưởng thành của người con trai. Người Dao nơi đây quan niệm rằng, để được cộng đồng công nhận và sau này khi mất đi có thể trở về với tổ tiên, mỗi người con trai nhất định phải trải qua nghi lễ này.

Nghi thức trao lễ vật nhà trai cho nhà gái trong lễ cưới người Giáy.

Lễ cưới người Giáy - Duyên dáng một bản sắc

Lễ cưới của người Giáy không chỉ là khúc hát se duyên đôi lứa, mà còn là nơi chảy mãi mạch nguồn văn hóa của một tộc người giữa đại ngàn Tây Bắc. Qua từng nghi thức, lễ vật và câu hát giao duyên, hiện lên một bản sắc riêng đầy quyến rũ, góp phần làm nên vẻ đẹp bức tranh văn hóa Việt Nam.

Cây nêu bên mái nhà Gươi, biểu tượng văn hóa của người Cơ Tu. (Ảnh: Thế Dương)

Độc đáo nghệ thuật trang trí cây nêu của đồng bào Cơ Tu

Cây nêu một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, giữ vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của đồng bào Cơ Tu, tỉnh Quảng Nam. Không chỉ là nhịp cầu kết nối giữa con người với thế giới thần linh, cây nêu còn là tác phẩm mỹ thuật dân gian, kết tinh vẻ đẹp, trí tuệ sáng tạo và bản sắc văn hóa của người Cơ Tu.

Phụ nữ Dao quần trắng ở xã Phúc An, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. (Ảnh: VŨ LINH)

Bản sắc người Dao quần trắng nơi lòng hồ Thác Bà

Xã Phúc An, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là nơi cư trú lâu đời của cộng đồng người Dao quần trắng. Trong nhịp sống hiện đại, người Dao quần trắng vẫn gìn giữ những giá trị gắn bó với bản sắc tộc người. Nổi bật là trang phục truyền thống và nghề đan rọ tôm, phản ánh lối sống gắn với thiên nhiên vùng ven hồ Thác Bà.

Cô dâu người Si La trang điểm chuẩn bị về nhà chồng. (Ảnh: Thế Dương)

Một mái nhà - Hai mùa cưới: Duyên tình đậm đà bản sắc của người Si La

Khác biệt với nhiều dân tộc khác, lễ cưới của người Si La là một hành trình hai mùa - hai lần cưới, đầy ý nghĩa, đánh dấu một mối lương duyên bền chặt, gắn bó và giàu bản sắc. Mỗi nghi lễ không chỉ thể hiện tình yêu đôi lứa, còn phản ánh chiều sâu văn hóa và đạo lý cộng đồng của một tộc người giữa đại ngàn Tây Bắc hùng vĩ.

Những mái nhà phủ rêu ở thôn Khuổi Mỹ, xã Phương Độ, thành phố Hà Giang. (Ảnh: VŨ LINH)

Khuổi My trong sương: Miền cổ tích trên sườn Tây Côn Lĩnh

Chỉ cách trung tâm thành phố Hà Giang hơn chục cây số, thôn Khuổi My, xã Phương Độ như một miền cổ tích còn sót lại giữa núi rừng. Ở độ cao gần 1000m so với mực nước biển, Khuổi My quanh năm sương mù bao bọc, phủ một lớp mỏng manh lên mái nhà, bờ rào, con dốc... Cả thôn như đang trôi giữa những tầng mây.
Ngôi nhà cổ Há Súng ngày càng xuống cấp theo thời gian. (Ảnh: VŨ LINH)

Há Súng - Bóng thời gian trên cao nguyên đá

Nằm vững chãi trên một gò đất cao giữa thôn Há Súng, xã Lũng Táo, huyện Đồng Văn (Hà Giang), ngôi nhà cổ trăm tuổi vẫn lặng lẽ giữ gìn những dấu ấn của một thời dù lớp bụi thời gian đã nhuộm phai từng mảng tường, từng đường nét chạm khắc.
Ảnh minh họa: Bộ tranh “Thần Nông và Địa Trạch” của dân tộc Cao Lan-Sán Chỉ do nghệ nhân Hàng Trống thể hiện. (Nguồn: Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)

Không gian cho tranh thờ của đồng bào vùng cao

Tranh thờ trong tâm thức của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao miền núi phía bắc được coi là sợi dây kết nối giữa con người với thần linh. Tuy nhiên, trước những biến thiên của cuộc sống hiện đại, di sản này đang dần mai một khỏi các bản làng trong sự nuối tiếc của nhiều cộng đồng.
Đông đảo người dân và du khách tham gia hoạt động trải nghiệm "Giữ màu di sản".

Trải nghiệm nét văn hóa vẽ sáp ong trên vải của người Mông tại Thủ đô

Hưởng ứng Ngày Quốc tế Bảo tàng 2025 với chủ đề “Tương lai của bảo tàng trong các cộng đồng thay đổi nhanh chóng”, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tổ chức sự kiện hoạt động trải nghiệm "Giữ màu di sản". Sự kiện giới thiệu về kỹ thuật tạo hoa văn sáp ong và nhuộm vải gắn liền với đôi bàn tay tài khéo của người phụ nữ Mông.

Lễ Tẩu Sai tại xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. (Ảnh: VŨ LINH)

Lễ Tẩu Sai - Dấu ấn trưởng thành và gắn kết cộng đồng người Dao Tiền ở Cao Bằng

Giữa đại ngàn Đông Bắc, khi tiếng trống, tiếng khèn vang lên từ bản làng xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, cộng đồng người Dao Tiền cùng nhau quây quần trong sự kiện văn hóa-tâm linh thiêng liêng: Lễ Tẩu Sai. Đây không chỉ là nghi lễ của riêng một dòng họ mà là minh chứng sống động cho sức mạnh cố kết cộng đồng và giá trị bền vững của văn hóa truyền thống trong lối sống hiện đại. 
Người H’Mông thu hoạch nông sản bản địa.

Đồng bào H’Mông giữ gốc để vươn xa

Trên những ngọn núi cao quanh năm mây phủ, đồng bào H’Mông vẫn luôn kiên trì kiến tạo đời sống văn hóa mới bằng cách “gạn đục khơi trong”, giữ gìn tinh hoa truyền thống, xây dựng nếp sống văn minh, hướng đến phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Với ý chí và sự quyết tâm, đồng bào H’Mông đang đi một hành trình dài, giữ lấy cái gốc để vươn xa.
Nét đẹp trang phục truyền thống của người Dao Tiền, tỉnh Cao Bằng.

Bảo tồn trang phục truyền thống qua sản phẩm du lịch

Không được sử dụng thường xuyên, trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số dần biến đổi, thậm chí biến mất khỏi cộng đồng. Nhằm đưa trang phục truyền thống của các dân tộc trở nên phổ biến hơn, nhiều địa phương đã xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù trên cơ sở lựa chọn, khai thác những giá trị văn hóa đặc trưng.

Vùng thiên nhiên phong phú đa dạng nên nghệ thuật trang trí cây nêu của người Co cũng phong phú hơn.

Thế giới sắc màu trong nghệ thuật trang trí cây nêu người Co miền núi Trà Bồng

Cũng như các dân tộc thiểu số ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người Co rất chú ý đến nghệ thuật tạo hình nhằm tạo ra cho nơi cư trú của mình một không gian thẩm mỹ đặc sắc riêng. Khả năng tạo hình và nghệ thuật tạo hình có những nét rất riêng và khá nổi trội so với nhiều dân tộc thiểu số khác trong khu vực.
Người dân tham gia thi giã bánh dày - một hoạt động truyền thống trong ngày hội Kiêng gió.

Tục Kiêng gió - Nét văn hóa tâm linh đặc sắc của đồng bào Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh

Mỗi dịp 4/4 (Âm lịch) hằng năm, bản làng người Dao Thanh Phán ở xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh lại rộn ràng trong sắc màu của lễ hội Kiêng gió, một nghi lễ dân gian đậm đà bản sắc văn hóa, thể hiện niềm tin sâu sắc của đồng bào Dao vào sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên. Không chỉ là ngày hội văn hóa tâm linh, lễ hội Kiêng gió còn là điểm hẹn của cộng đồng, nơi người dân các dân tộc cùng nhau gặp gỡ, vui chơi và lan tỏa tinh thần đoàn kết.
Nghệ nhân Nay Phai đang thử độ ngân khi chỉnh chiêng. (Ảnh: NX)

Gìn giữ di sản cồng chiêng từ đôi tay nghệ nhân

Giữa không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, có những con người đặc biệt được giao trọng trách gìn giữ những thanh âm của đại ngàn. Nghệ nhân Nay Phai, người con của mảnh đất Gia Lai, với tài năng và tâm huyết, không chỉ lưu truyền âm thanh đặc trưng của cồng chiêng, mà còn thổi vào từng tiếng ngân vang, làm sống lại sức sống mãnh liệt của di sản vô giá này.

Nghệ nhân Lò Văn Biến đang thổi khèn bè – một trong những loại nhạc cụ truyền thống quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào Thái.

Nghệ nhân Lò Văn Biến - Di sản Xòe Thái trường tồn

Nghệ nhân Lò Văn Biến, người được ví như "pho sử sống" của văn hóa dân tộc Thái, đã dành cả cuộc đời để gìn giữ và phát huy di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc Thái, đặc biệt là điệu Xòe. Ông là một trong những người đầu tiên nghiên cứu và sưu tầm những điệu Xòe cổ, giúp chúng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2015.
Giữa cảnh sắc núi rừng hùng vĩ, bóng đá nữ trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của đồng bào nơi đây.

Bóng đá nữ vùng cao: Từ phong trào đến sản phẩm du lịch văn hóa

Cứ đến dịp 16/3 âm lịch hằng năm, xã Húc Động, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh lại rộn ràng bước vào mùa lễ hội Soóng Cọ, một lễ hội truyền thống của dân tộc Sán Chỉ. Trong không khí rộn ràng ấy, một trong những hoạt động được chờ đợi nhất chính là giải bóng đá nữ truyền thống, nơi những cô gái vùng cao ra sân thi đấu trong trang phục váy áo dân tộc, một hình ảnh độc đáo, thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách những năm gần đây.
Phó Cả sư Nại Cao Liêm đang thực hiện công đoạn khắc chữ trên lá buông. (Ảnh: NGỌC XIÊM)

Nỗ lực gìn giữ sách quý

Vào mỗi dịp lễ lớn, trong không gian linh thiêng tại các đền tháp Chăm ở Ninh Thuận, những bài kinh thỉnh cầu vang lên đều đặn, ngân vang giữa đất trời, được truyền đời hàng trăm năm thông qua những bộ sách lá buông, vật thiêng chỉ dành riêng cho các tu sĩ Bà la môn trong các dịp lễ trọng. 
Tất cả các khâu để hoàn thiện nhà trình tường đều được làm thủ công bằng tay.

Nhà trình tường - biểu tượng của sự gắn bó, bền bỉ và sáng tạo của người H'Mông

Sáng sớm trên xã Chiến Phố, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, sương còn phủ nhẹ mái nhà, nhưng đường núi đã rộn ràng tiếng bước chân. Hôm nay là ngày làm nhà mới của gia đình ông Vàng Sí Hùng, một ngôi nhà trình tường truyền thống. Giữa miền đá khắc nghiệt, nhà trình tường không chỉ là nơi trú ngụ, mà còn là biểu tượng của sự gắn bó, bền bỉ và sáng tạo của người H'Mông ở vùng đất này.