Chủ nghĩa khủng bố được nuôi dưỡng bởi điều gì?

Ted Kaczynski, một cựu giáo viên ở Mỹ, từ năm 1978 đến 1995, đã tiến hành hàng loạt vụ đánh bom thư khủng bố khắp nước Mỹ đúng theo kiểu “sói đơn độc” cổ điển, đã dùng nguồn tài trợ nào để chế tạo bom? Anders Behring Breivik, kẻ thủ ác ngày 22/7/2011 ở Oslo - Na Uy, cũng chỉ là một nhân viên “cà là èng” ở một công ty vô danh, thì lấy đâu ra tiền để tiến hành khủng bố? Hai câu hỏi này đủ để trả lời cho vấn đề lớn hơn rất nhiều: “Tài chính có phải nền tảng nuôi dưỡng khủng bố tiên quyết nhất?”.

Khi không hiểu đối thủ, phương Tây “không có chiến lược” hữu hiệu nào. Ảnh: Lowy Institute
Khi không hiểu đối thủ, phương Tây “không có chiến lược” hữu hiệu nào. Ảnh: Lowy Institute

1 Đúng 20 năm sau sự kiện 11/9, Taliban lại một lần nữa làm chủ Afghanistan. Giới học giả định nghĩa thế nào về Taliban? Họ cực hiếm khi dùng từ “khủng bố” khi đề cập lực lượng này. Nhưng tại sao họ lại coi tổ chức tự xưng Nhà nước Hồi giáo (IS) là tổ chức khủng bố, giống như Al-Qaeda? Trong khi, IS hay Taliban đều đã tự tuyên về một Caliphate - nhà nước thần quyền. Phải chăng, bản thân giới học giả có thiên kiến khác, hay chính họ đã có những thay đổi về quan niệm, hoặc bản thân Taliban thay đổi?

Có một chi tiết vô cùng quan trọng: Trong 20 năm cuộc chiến chống khủng bố được Mỹ phát động, cả ba thủ lĩnh nguyên thủy của Al-Qaeda, Taliban và IS đều đã chết. Osama Bin Laden bị bắn chết bởi đặc nhiệm Mỹ, Mulla Omar của Taliban chết bệnh, Abu Musab al-Zarqawi bị Mỹ không kích dẫn đến tử vong. Họ chết, nhưng chủ nghĩa khủng bố dường như còn mạnh thêm, phức tạp hơn, lực lượng này mở rộng chiến trường khắp cả châu Âu, bán đảo Arab, Trung - Nam Á và tiểu lục địa Ấn Độ.  

Điều gì nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố, và nuôi dưỡng đến mức độ nào để nó có thể sống dai dẳng đến vậy? Đây là một câu hỏi không ai có thể trả lời, kể cả là Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), Cơ quan Tình báo Anh (MI5) hay Cục Tình báo quốc gia Israel (Mossad). Tất cả đều là những nhận xét khá chung chung, mang tính đúc rút từ vài hiện tượng, kiểu như đánh giá của các học giả Tây phương rằng lực lượng Al-Qaeda ở riêng Iraq kiếm được hàng trăm triệu USD mỗi năm từ cướp bóc, bắt cóc và buôn lậu dầu mỏ. 

Cuộc kiếm tìm nguồn đầu tư cho khủng bố này - với kỳ vọng cắt đứt được chúng thì có thể khiến chủ nghĩa khủng bố tự suy tàn - chỉ là cuộc mò kim đáy bể. Nó không đi vào thực chất, không xác lập đúng được các giá trị đích thực nuôi dưỡng khủng bố. Và nó chỉ như chuyện bịt lỗ rò trên một thân đê vốn dĩ lỗ chỗ các lỗ bục mục nát.

2 Khi IS nổi lên ở Iraq và tạo ra một cơn địa chấn, xóa nhòa cả đường biên Iraq - Syria, những giếng dầu tất nhiên nằm trong tầm kiểm soát của họ. Tuy nhiên, dù trong đội ngũ IS có rất nhiều kỹ sư, họ cũng không cách nào vận hành được các giếng dầu ấy. Việc không thu lợi được từ những giếng dầu kia có khiến cho IS kiệt quệ đi hay không? Câu trả lời là không. Bây giờ, IS đã hiện diện ở cả Bắc Phi, Yemen và nhiều quốc gia vùng Vịnh. Để tồn tại, họ cần tiền, tất nhiên rồi. Nhưng nếu họ đã bắt đầu từ chỗ không có tiền và vẫn bành trướng đến mức độ như vậy, thì liệu rằng tiền có phải là tất cả?

Osama Bin Laden lớn lên trong một gia đình giàu có ở Saudi Arabia, và nhiều người nghĩ rằng nguồn tài chính của gia đình là nền tảng để ông ta tạo dựng nên Al-Qaeda. Điều đó không sai. Ngay cả IS thời kỳ sơ khởi, với sự dẫn dắt của Al-Zarqawi, cũng đã “khởi nghiệp” nhờ vào tài trợ từ chính Bin Laden. Nhưng khi Bin Laden bị hạ sát, Al-Qaeda vẫn phát triển, bất chấp Tổng thống Mỹ lúc ấy là Barack Obama tuyên bố: “Al-Qaeda sắp suy tàn”. Xem ra, nguồn tài trợ cho sự lớn mạnh của các tổ chức khủng bố chủ yếu đến chính từ tự thân chúng, với những đóng góp từ chính các đối tượng tin vào lý tưởng khủng bố, thay vì đến từ một vài thế lực nào đó mà chúng ta vẫn dễ dàng nghi ngờ.

20 năm qua, bản thân lực lượng “chính đạo” cũng đã có những hiểu biết sai lệch về kẻ thù của mình. Lý tưởng của Al-Qaeda là gì? Nó khác và giống với lý tưởng của IS ở chỗ nào? Tất cả vẫn còn là những tranh cãi rất lớn. Nhưng có một sai lầm thế kỷ mà các học giả Tây phương đã đưa ra, là đơn giản hóa mọi chuyện, quy chụp mọi nguyên nhân cho lý tưởng tôn giáo. Chính các thông tin lệch lạc này đã tạo nên một làn sóng bài Hồi giáo rất mạnh ở phương Tây, và làn sóng này lại nuôi dưỡng mạnh mẽ hơn sự hận thù, để rồi Al-Qaeda hay IS đều có thể tuyển dụng, lôi kéo sự hỗ trợ từ chính trong lòng các quốc gia Tây phương.

Rồi ngay cả các đánh giá chủ quan rằng các phần tử Hồi giáo đa số là học thức kém, dễ bị lôi kéo vì cuồng tín cũng là thứ đã khiến cuộc chiến chống khủng bố đi vào bế tắc. Thực tế khác hẳn. 75% số thành viên Al-Qaeda đến từ các gia đình trung lưu hoặc thượng lưu; 90% có gia đình êm ấm không đổ vỡ gì và 63% đã vào đại học. Bản thân Bin Laden cũng là một kỹ sư xây dựng. Mohammed Atta, một thủ lĩnh Al-Qaeda, là một kiến trúc sư và Al-Zawahiri, thủ lĩnh Al-Qaeda chi nhánh Iraq (được tôn làm emir của Al-Qaeda ở bán đảo Arab) là một nhà vật lý học. Sự kỳ thị tôn giáo và miệt thị học thức dành cho họ cũng đã nuôi thêm thái độ thù địch với Tây phương. Nó khuyến khích chính các thanh niên Hồi giáo tham gia các tổ chức khủng bố dạng này, như “tinh thần trách nhiệm” với một cộng đồng rộng lớn.

3 Tóm lại, khủng bố thực chất không phải là một lý tưởng. Nó chỉ là phương thức để chứng minh, thực hành một lý tưởng dựa trên cơ sở hành động bạo lực. Để chống lại nó, cần phải hiểu rõ nó. Và càng phải xác quyết: Thứ nuôi dưỡng khủng bố mạnh mẽ nhất không phải là các thế lực tài chính nào đó ẩn dưới một tinh thần tôn giáo nào đó. Thứ nuôi dưỡng khủng bố chính là sự thiếu tôn trọng các khác biệt văn hóa mà người Tây phương đã và vẫn thể hiện, khi họ ngạo mạn phổ cập các giá trị về tự do, dân chủ rất phổ quát với mình, nhưng lại vô cùng xa lạ và khác biệt với các xã hội khác, trong vai trò của những nhà khai sáng. Nó xúc phạm các tinh thần riêng, các giá trị riêng. Do đó, nó khơi gợi lên các hận thù dai dẳng. 

Cơ bản, khi không hiểu đối thủ của mình, và vẫn vô tình nuôi dưỡng “kẻ thù” bằng các hiểu biết lệch lạc ấy, phương Tây “không có chiến lược nào” - chính là điều mà một chỉ huy lực lượng quân sự Mỹ ở Afghanistan từng phát biểu. “Chúng tôi chỉ có chiến thuật”, và khi chiến thuật là thứ duy nhất được sử dụng, nó chỉ kéo dài thêm cuộc chiến mà ở đó cướp đi hàng triệu mạng người.

Và đến bây giờ, chủ nghĩa khủng bố đang bước vào một giai đoạn mới, với khả năng rất cao là Al-Qaeda sẽ bắt tay thật chặt với IS, như dự đoán của nhiều học giả phương Tây qua các sự kiện ở Libya, ở Syria và Yemen. Giữa cái vũng lầy mà chính phương Tây tạo ra và không tài nào thoát nổi ấy, nực cười thay, có những kẻ khủng bố lại đang bắn vào họ bằng tên lửa Stinger, thứ mà người phương Tây tạo ra, mang tới, và… khai hỏa.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.