Cần mạnh mẽ gỡ bỏ các rào cản

Để thúc đẩy sự phát triển hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học ở lĩnh vực nông nghiệp hiện nay, trao đổi với phóng viên Nhân Dân cuối tuần, Thạc sĩ Trần Mạnh Chiến (trong ảnh), Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA) - nêu quan điểm: Cần nhận biết hiện trạng và các cản trở với công nghệ sinh học để ứng dụng tạo sản phẩm hữu ích.
Mô hình nhân giống khoai tây sạch bệnh tại Viện Sinh học nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Anh Sơn
Mô hình nhân giống khoai tây sạch bệnh tại Viện Sinh học nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Anh Sơn

- Ông đánh giá thế nào về ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay?

- Nhìn từ khía cạnh phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới, công nghệ sinh học đã đóng vai trò to lớn trong phát triển nông nghiệp Việt Nam nhiều năm qua. Ấn tượng đầu tiên phải kể đến là công tác chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng tốt hơn và với quy mô lớn, đặc biệt là các giống lúa lai năng suất cao từng bước thay thế các giống lúa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển vaccine phòng trị bệnh tốt đã giúp ngành chăn nuôi từng bước chuyển mình sang quy mô chuyên nghiệp hơn và khắc phục phần nào tổn thất do các đợt bùng phát dịch gây ra.

Mặt khác, từ góc nhìn bền vững, ngành công nghệ sinh học đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển thuốc bảo vệ thực vật và chế phẩm sinh học giúp tăng chất lượng sản phẩm và phù hợp sản xuất hữu cơ đang là xu thế thị trường mới. Các chế phẩm này cũng ứng dụng trong xử lý rác thải làm giảm ô nhiễm môi trường từ vật nuôi. Một số công ty công nghệ sinh học đã từng bước lớn mạnh, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nông nghiệp nước nhà cả về sản lượng và chất lượng.

Thạc sĩ Trần Mạnh Chiến, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA)

Thạc sĩ Trần Mạnh Chiến, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA)

- Theo quan điểm của ông, đâu là những khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ sinh học ở nước ta hiện nay ?

- Mặc dù ứng dụng trải rộng trên nhiều lĩnh vực, từ tăng sản lượng đến chất lượng thực phẩm và cả cải thiện môi trường thông qua xử lý rác thải, nhưng quy mô ứng dụng công nghệ sinh học ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Một bức tranh dễ nhận thấy là quang cảnh chung quanh Học viện Nông nghiệp Việt Nam (tên trước đây là Trường đại học Nông nghiệp 1) với la liệt các trung tâm giống và cây cảnh. Nhưng khi hỏi kỹ các đơn vị này thì nguồn giống hầu hết được thu gom từ những người dân chung quanh theo cách chiết ghép truyền thống. Công nghệ nuôi cấy mô chỉ mới ứng dụng thương mại được với ít loại cây trồng như hoa hiên và chuối. Trong khi, công nghệ nuôi cấy mô và tế bào có thể nhân giống trên quy mô lớn với chất lượng ưu việt.

So với tiềm năng, công nghệ sinh học vẫn chưa phát huy hết sức mạnh của nó trong ngành nông nghiệp nước ta là do nhiều khó khăn từ cả khách quan và chủ quan. Rào cản đầu tiên là quy mô sản xuất nhỏ lẻ manh mún với 60% dân số vẫn còn làm nông nghiệp so với chỉ dưới 5% ở các nước phát triển. Điểm yếu này đã được nhận diện, cho nên nước ta đang có chính sách dồn điền đổi thửa tích tụ lại ruộng đất, nhưng rất tiếc là hiệu quả chưa cao.

Rào cản kế tiếp là khả năng kiểm soát thị trường nông sản còn lỏng lẻo nên chưa khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng phát triển chất lượng - vốn là thế mạnh của công nghệ sinh học. Từ chính sách an toàn thực phẩm chưa thực thi tốt đến việc kiểm soát đầu vào của ngành nông nghiệp như phân bón, giống và thuốc bảo vệ thực vật còn nhiều kẽ hở dẫn đến lạm dụng nhập khẩu nhiều nguồn đầu vào không rõ nguồn gốc, tạo ra cạnh tranh bất bình đẳng.

Khó khăn tiếp đến liên quan đến bảo vệ bản quyền, đây cũng là vấn đề chung. Đặc biệt với công nghệ sinh học đòi hỏi đầu tư lớn cả về người và của trong thời gian dài nên càng hạn chế khối tư nhân tham gia khi bản quyền ít được bảo vệ. Do vậy mà nguồn nhân lực cũng không được hấp dẫn. Thị trường sẽ chọn công nghệ ngoại nhập thay vì tự phát triển.

Yếu tố thứ tư là xu hướng tiêu dùng công nghiệp. Đây là yếu tố khách quan tất yếu với đặc điểm chính là thực phẩm chế biến sẵn rẻ tiền và tiện lợi. Một mặt yếu tố này là động lực thúc đẩy ứng dụng công nghệ sinh học để tăng năng suất và giảm giá thành. Song, đây cũng lại là cản trở ứng dụng chế phẩm sinh học để tăng chất lượng sản phẩm do tăng giá thành sản phẩm. Trong khi, sản phẩm ra thị trường chưa bán được giá cao hơn tương xứng.

- Trước những rào cản đó, Việt Nam cần xây dựng chính sách thế nào để thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp, thưa ông?

- Là nước đi sau trong ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại, nhưng lại hưởng lợi với văn hóa ẩm thực lành mạnh từ lâu đời, nước ta cần mạnh mẽ gỡ bỏ các rào cản đối với các công nghệ sinh học phù hợp sức khỏe của người dân, hạn chế ứng dụng các công nghệ sinh học tạo sản phẩm tiềm ẩn rủi ro và gây tranh cãi như công nghệ biến đổi gen. Mặt khác, cần chính sách khuyến khích công nghệ sinh học hiện đại kết hợp với truyền thống để vừa nâng cao sức khỏe, vừa làm mới và tôn vinh văn hóa ẩm thực truyền thống lành mạnh.

Theo tôi, cần chế tài mạnh từ siết chặt đến cấm đối với các hóa chất độc hại hoặc nghi ngờ rủi ro cao với sức khỏe. Thí dụ các loại thuốc diệt cỏ độc hại cần thực thi việc cấm nghiêm ngặt; một số thuốc bảo vệ thực vật hóa học được phép trên thế giới thì hạn chế tiêu dùng bằng chính sách thuế hoặc quy định với đầu ra; yêu cầu thông tin sản phẩm chi tiết quy trình sản xuất và thành phần để giúp người tiêu dùng tự đưa ra lựa chọn. Riêng với các thông tin nhạy cảm thì cần ghi lên bao bì như: sản phẩm biến đổi gen (GMO), sản phẩm trên ruộng có dùng thuốc bảo vệ thực vật…

Chúng ta cần khuyến khích ứng dụng công nghệ sinh học nhằm cải tiến các sản phẩm truyền thống đặc sắc như nước mắm để nâng tầm chất lượng lên mức cao hơn, khác biệt hoàn toàn với nước mắm công nghiệp. Các sản phẩm truyền thống như vậy có ưu thế to lớn về lợi ích sức khỏe đã được kiểm chứng từ hàng nghìn đời nay, nhưng lại bất lợi về quy mô sản xuất, giá thành và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Vì vậy, công nghệ sinh học và các kỹ thuật liên quan cần được áp dụng để nâng cao chất lượng, quy chuẩn các sản phẩm này trở thành thương hiệu của quốc gia.

Đi cùng là chính sách tín dụng ưu đãi cho các công ty từ nghiên cứu đến ứng dụng công nghệ sinh học vì đầu tư vào lĩnh vực này đòi hỏi vốn lớn và thời gian hoàn vốn lâu dài. Tăng cường khuyến khích đào tạo công nghệ sinh học ứng dụng từ bậc phổ thông đến đại học. Khuyến khích gắn kết đào tạo với ứng dụng thực tế. Thay đổi chính sách bảo vệ bản quyền để bảo đảm quyền lợi chính đáng của tác giả.

Khuyến khích tích tụ ruộng đất chắc hẳn đã được nói nhiều và chúng ta đã đạt một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, để giới doanh nghiệp tiếp cận với ruộng đất quy mô lớn phù hợp ứng dụng công nghệ sinh học tích cực hơn thì cần giải pháp quyết liệt hơn, đi kèm với gỡ bỏ tâm lý giữ đất trong người dân.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.