Cần hành động ngay để thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn
Có thể nói, vấn đề thoái vốn, cổ phần hóa trong thời gian qua đang chững lại và chậm so yêu cầu đề ra. Trả lời Nhân Dân cuối tuần, Cục trưởng Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) Đặng Quyết Tiến chỉ ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ giai đoạn 2016-2020.
Những chậm trễ trong thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không thể né tránh trách nhiệm của chính các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chậm, cả tiến trình sẽ chậm. Lúc này, sự chủ động của doanh nghiệp rất cần.
- Ông nhìn nhận thế nào về quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016-2020?
Trong giai đoạn 2016-2020 chúng ta chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, dù trên thực tế con số có thể cao hơn. Cụ thể, giai đoạn 2016-2020 chúng ta chỉ đạt 30% kế hoạch CPH đề ra. Lũy kế giai đoạn 2016-2020, đã có 180 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị doanh nghiệp là 489.690 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong 180 doanh nghiệp đã CPH chỉ có 39/128 doanh nghiệp CPH thuộc danh mục cổ phần hóa theo Công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 30% kế hoạch).
Năm 2021, cũng chỉ ghi nhận bốn doanh nghiệp cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 333 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 196 tỷ đồng. Tương tự, về công tác thoái vốn, lũy kế tổng số thoái vốn từ năm 2016-2020: thoái 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng. Có thể nói vấn đề thoái vốn, cổ phần hóa trong thời gian qua đang chững lại và chậm so yêu cầu đề ra.
- Cũng trong giai đoạn này, hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Phải chăng chính sách vẫn chưa đến được với thực tế, thưa ông?
Có ba nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên. Thứ nhất, do nền kinh tế của chúng ta có những biến động trong bối cảnh kinh tế chính trị thế giới có những biến động với chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc, dịch Covid-19 diễn ra và kéo dài đến hiện nay. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là những nguyên nhân chính dẫn đến sự chậm trễ của cổ phần hóa, thoái vốn. Đặc biệt là do nhận thức. Trong nhận thức vẫn còn tư tưởng ngại thậm chí không muốn cổ phần hóa. Bên cạnh đó, có những vấn đề phát sinh trong cổ phần hóa, những vướng mắc xảy ra còn sự tranh luận khác nhau và vẫn chưa thống nhất trong vấn đề đưa vào thể chế để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Thứ hai, trong tổ chức thực hiện, các tập đoàn, tổng công ty còn lúng túng ở hai vấn đề: Việc xây dựng danh mục đưa vào cổ phần hóa chưa sát, dẫn đến cổ phần hóa doanh nghiệp ngoài danh mục thực hiện được nhiều hơn trong danh mục. Các doanh nghiệp còn lúng túng trong vấn đề chuẩn bị cổ phần hóa, đặc biệt là khi áp dụng Luật Quản lý tài sản công, sắp xếp lại cơ sở nhà đất, đến khi cổ phần hóa, doanh nghiệp mới vội vàng sắp xếp, trong khi việc sắp xếp lại nhà đất không phải chỉ doanh nghiệp cổ phần hóa mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải sắp xếp. Chính vì sắp xếp chậm nên còn lúng túng, dẫn đến kéo dài thời gian chuẩn bị cổ phần hóa, dẫn đến nhiều doanh nghiệp sau nhiều năm vẫn chưa sắp xếp xong. Mặt khác, dù là vấn đề do lịch sử để lại song việc sắp xếp lại nhà đất trở thành vấn đề tồn tại, bất cập, và cũng mang tính chủ quan của những người đứng đầu doanh nghiệp. Thứ ba, trong công tác kiểm tra giám sát. Chúng ta có kiểm tra giám sát, có đánh giá, có chỉ ra chỗ này chỗ kia cổ phần hóa chậm, nhưng sau đó xử lý như thế nào, kiểm điểm trách nhiệm ra sao thì còn thiếu chế tài, dẫn đến tính thực thi pháp luật, tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ còn chưa cao.
- Ông có thể nói rõ hơn việc còn nhiều quan điểm khác nhau về nguyên nhân nhận thức trong quá trình thực hiện dẫn tới quá trình cổ phần hóa bị chậm trễ?
Thực tế, một trong những nguyên nhân dẫn tới cổ phần hóa chậm trễ do nhận thức còn nhiều quan điểm khác nhau về các vấn đề như: xác định giá trị lợi thế, giá trị đất đai, giá trị lịch sử văn hóa... Bên cạnh đó, vấn đề xử lý những tồn tại trong quá trình sắp xếp đất đai còn có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng lại chậm được các cơ quan chức năng tháo gỡ, các thể chế chậm được ban hành. Thí dụ, việc sửa những vấn đề vướng mắc trong cổ phần hóa thì tới năm 2020 chúng ta mới ban hành Nghị định 140/NĐ-CP, còn việc sắp xếp đất đai theo Luật Quản lý tài sản công thì đến năm 2021 chúng ta mới ban hành Nghị định 67/NĐ-CP sửa Nghị định 167/2017/NĐ-CP. Rõ ràng, đây là vấn đề phải tuân thủ pháp luật, nhưng hệ thống thể chế chậm được ban hành thì doanh nghiệp thực hiện gặp vướng mắc cũng sẽ bị chậm.
- Thưa ông, từ những đúc kết nói trên, có thể đưa ra những giải pháp gì thúc đẩy cổ phần hóa trong giai đoạn tới?
Tôi cho rằng, muốn thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn, cần tập trung vào những vấn đề sau: Cần xử lý, sắp xếp nhà đất để bảo đảm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh chính, thay vì sau cổ phần hóa, doanh nghiệp lại đi vào kinh doanh bất động sản, không đúng với mục tiêu đặt ra; sắp xếp đất đai để tiết kiệm nguồn lực bằng cách thu hồi lại các nguồn lực để giải phóng nguồn lực đó cho các thành phần kinh tế khác. Đây là mục tiêu đòi hỏi phải có giải pháp căn cơ. Đồng thời, rà soát lại khâu chuẩn bị cổ phần hóa, khâu xác định giá trị doanh nghiệp, xem còn vấn đề gì bất cập, chưa chính xác, chưa sát thực tế, sau đó hoàn thiện thể chế theo hướng cơ chế thị trường, công khai minh bạch, tôn trọng việc thẩm định giá của các cơ quan tư vấn thẩm định giá tuân thủ theo các quy định thẩm định giá, như vậy để tránh được sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước vào vấn đề định giá mà không theo cơ chế thị trường…
- Tuy nhiên, làm thế nào để xác định đúng giá trị doanh nghiệp và có nên tách sắp xếp đất đai ra khỏi quá trình cổ phần hóa hay không, thưa ông?
Đây là hai vướng mắc lớn nhất cản trở quá trình cổ phần hóa thời gian qua. Với vai trò là cơ quan ban hành chính sách, Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý về các vấn đề. Thứ nhất, về định hướng tách giá trị đất ra khỏi phương án tính giá trị cổ phần hóa thì phải rà soát, tính toán kỹ để bảo đảm tính đúng, tính đủ, tránh thất thoát, phải bảo đảm đất đai được quản lý chặt chẽ, tránh bị lợi dụng. Thứ hai, về định giá, phải làm sao tính đúng tính đủ, nhưng phù hợp thực tiễn.
Để đưa ra quy định cụ thể, một cơ chế chính sách rõ ràng, Bộ Tài chính sẽ cần tiếp tục phải lắng nghe nhiều hơn, bên cạnh ý kiến của các chuyên gia, các Tập đoàn, Tổng công ty, thì cần lắng nghe ý kiến của các thành phần kinh tế khác. Khi hội tụ đủ ý kiến của các thành phần liên quan, nhiều chiều, chiếu theo các quy định của pháp luật, định hướng của Đảng, chúng ta mới ban hành được cơ chế chính sách phù hợp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Trước mắt, trong giai đoạn phục hồi nền kinh tế cần phải có ngay những hành động tháo gỡ trong khuôn khổ pháp luật cho phép để thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn ở mức hợp lý.
-Trân trọng cảm ơn ông!
PGS, TS Trần Hoàng Ngân - Thành viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội:
Chậm mà chắc hơn nhanh mà thất thoát
Thời gian qua, vấn đề được phản ánh nhiều, gây nhiều bức xúc là chậm cổ phần hóa. Nhưng chậm cũng chưa chắc là không tốt, vì thế cần có sự phân biệt. Chậm bán cổ phần của Nhà nước, nhưng nếu doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả thì khi cổ phần hóa lại thu được nhiều tài sản hơn. Bên cạnh đó, là cách thức thoái vốn nữa. Làm chậm, nhưng chắc vẫn hơn làm nhanh, vội vã mà lại để xảy ra thất thoát. Đã có thời kỳ chúng ta nóng vội, dẫn đến thất thoát tài sản, mất mát cán bộ. Chậm mà kỹ, để rà soát lại luật pháp, thể chế, làm đúng quy định, thậm chí có cách thoái vốn khôn khéo để thu về cho Nhà nước nhiều nhất có thể thì vẫn tốt hơn là nhanh mà ẩu.
Nhưng đất đai đúng là một vấn đề lớn, vì thị trường đất đai tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các thành phố lớn đang rất biến động. Tôi nhớ Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư hướng dẫn về vấn đề đất đai cách đây một năm (Thông tư số 03/2021/TT-BTNMT - PV), nhưng như Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa cho biết, vừa qua tài sản Nhà nước bị thất thoát nhiều qua cổ phần hóa chủ yếu liên quan đến đất. Khung khổ pháp lý hiện nay có những bất cập. Theo Nghị định 32 của Chính phủ, tài sản doanh nghiệp gắn liền với đất thuê hằng năm không được tính vào giá trị doanh nghiệp, nhưng nộp tiền đất một năm thì lại được gắn vào giá trị doanh nghiệp. Bộ trưởng Hồ Đức Phớc nhìn nhận "đây là lỗ hổng cần xử lý để không thất thoát đất đai khi chuyển sang cổ phần hóa doanh nghiệp". Bên cạnh đó là vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất không sát giá thị trường, tạo ra thất thoát khi tài sản nhà nước chuyển qua tài sản tư nhân… Những bất cập này - và có thể còn nhiều điều khác nữa - cần sớm được khắc phục.
CẨM HÀ (thực hiện)
Ông Dương Quang Thành, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN):
Thúc đẩy chuyển đổi vì mục tiêu doanh nghiệp số
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là trong công tác đầu tư nhằm khơi thông nguồn lực, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, EVN đã hoàn thành chuyển Tổng công ty phát điện 2 và 3 sang công ty cổ phần, đang triển khai các bước cổ phần hóa Tổng công ty Phát điện 1; hoàn thành thoái toàn bộ vốn tại ba công ty cổ phần, gồm: Công ty Tài chính cổ phần Điện lực (EVNFinance); Công ty cổ phần Cơ điện Thủ Đức (EMC); Công ty cổ phần Phong điện Thuận Bình (TBW) với tổng giá trị thu về là 634,360 tỷ đồng, thặng dư 171,155 tỷ đồng.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 852 phê duyệt Đề án tổng thể sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc EVN giai đoạn 2017-2020, ngày 31/7/2017, Hội đồng Thành viên EVN đã xây dựng kế hoạch chi tiết, ban hành Chỉ thị chỉ đạo công tác triển khai, phê duyệt Đề án tái cơ cấu cho các Tổng công ty thuộc EVN, đồng thời, chuyển giao Công ty Nhiệt điện Nghi Sơn 1 từ EVN về Tổng công ty Phát điện 1; thành lập mới các đơn vị (03 Ban QLDA điện 1, 2, 3; Trung tâm Dịch vụ sửa chữa EVN; xây dựng Đề án tách bạch về tổ chức khâu phân phối và khâu kinh doanh bán lẻ điện của các Tổng công ty Điện lực (TCTĐL) thuộc EVN, định hướng đến năm 2025; chuyển Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0) thành công ty TNHH MTV, hạch toán độc lập trong EVN; thành lập Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu khoa học thuộc EVN; phê duyệt Đề án tách bạch khâu dịch vụ sửa chữa với khâu quản lý vận hành các nhà máy điện, lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối của các đơn vị trong EVN…
Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP của Chính phủ, EVN đang đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số trong các lĩnh vực để sớm đưa EVN trở thành doanh nghiệp số; tiếp tục đổi mới trong công tác quản lý; chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, đáp ứng mục tiêu "Nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp"; tiếp tục hoàn thiện các nội dung quản trị tài sản theo hướng chuyên biệt; duy trì văn hóa doanh nghiệp với các giá trị cốt lõi như tận tâm-trí tuệ, chất lượng-tín nhiệm, hợp tác-chia sẻ, sáng tạo-hiệu quả; tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng đội ngũ chuyên gia chuyên sâu, xác định khung năng lực cần có cho các vị trí chuyên gia hướng đến các chuẩn mực ngang tầm khu vực và quốc tế; kết nối mạng lưới các ứng viên chuyên gia để cùng chia sẻ, hỗ trợ nhau giải quyết công việc hiệu quả hơn; người lao động trong mọi lĩnh vực được nhanh chóng tiếp cận kiến thức thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong quản trị nhân sự...
Để bảo đảm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư, EVN tiếp tục áp dụng một số chiến lược huy động vốn như: Đẩy mạnh việc vay vốn trực tiếp không có bảo lãnh Chính phủ từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính nước ngoài, bao gồm cả vay vốn thông qua và không thông qua ECA; kiên trì tiếp cận nguồn vốn ODA/vốn ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài để đầu tư cho các dự án điện; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để đa dạng nguồn vốn vay, bao gồm cả các nguồn vốn viện trợ (EU, USTDA...); tiếp tục cải thiện Hệ số tín nhiệm của Công ty mẹ EVN và các đơn vị thành viên để tăng cường khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế; tiếp tục đề nghị được bố trí nguồn vốn NSNN thực hiện triển khai đầu tư các dự án cấp điện nông thôn, miền núi, hải đảo nhằm tạo động lực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần góp phần thực hiện công bằng, an sinh xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của Tổ quốc; tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất của người dân khu vực nông thôn miền núi và hải đảo.
Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.
Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.
Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.
Các hiện tượng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu, với mức độ, cường độ vượt xa so dự báo, liên tục thách thức sức chống chịu của các đô thị Việt Nam.
Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.
Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.
Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.
Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.
Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.
Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.
Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.
Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.
Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.
Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.
Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, chất lượng giáo dục trở thành yếu tố sống còn quyết định uy tín, thương hiệu và năng lực cạnh tranh của mỗi cơ sở đào tạo đại học.
Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.
Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.
Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.
Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.
Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.
Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung.
Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.
Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.
Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Lời tòa soạn - Theo dự kiến, đoàn thanh tra về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) của Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ sang làm việc tại Việt Nam trong tháng 11/2025.