Cần cơ chế hỗ trợ nghiên cứu sinh

Trong bối cảnh hội nhập, áp dụng những chuẩn mực quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là việc phải làm. Với yêu cầu nghiên cứu sinh (NCS) phải có ít nhất một bài báo thuộc danh mục ISI/Scopus hoặc hai báo cáo quốc tế thì mới đủ điều kiện tốt nghiệp, cho thấy Bộ GD-ĐT đang siết đầu vào chương trình đào tạo tiến sĩ (TS). Bài viết này thảo luận một số cơ chế nhằm hỗ trợ các NCS trong nước đạt được các yêu cầu trên.

Nghiên cứu sinh cần nâng cao hiệu quả của các nghiên cứu khoa học. Ảnh: KHÁNH AN
Nghiên cứu sinh cần nâng cao hiệu quả của các nghiên cứu khoa học. Ảnh: KHÁNH AN

Về tiêu chuẩn tạp chí quốc tế

Chúng ta đều biết ISI/Scopus là hai danh mục bao gồm hơn 24 nghìn tạp chí khoa học chất lượng, bao phủ tất cả các chuyên ngành hẹp thuộc lĩnh vực từ khoa học tự nhiên, cho đến kỹ thuật - công nghệ, xã hội và nhân văn. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng việc Bộ GD-ĐT để thêm yêu cầu thay thế “hai báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế/tạp chí quốc tế có phản biện” cũng là cách làm hợp lý. Một mặt, nó bảo đảm quyền tự chủ học thuật của các trường/viện trong việc đưa ra các yêu cầu đối với từng chuyên ngành/lĩnh vực đào tạo cụ thể; mặt khác nó cũng bảo đảm không bỏ sót một số tạp chí khoa học có chất lượng tốt nhưng vì nhiều lý do không hoặc chưa nằm trong danh mục của ISI/Scopus (thí dụ: Journal of Vietnamese Studies do NXB Đại học California ấn hành).

Tuy vậy, theo chúng tôi, sẽ trọn vẹn hơn, nếu quy chế đào tạo TS mới yêu cầu các trường/viện phải công khai danh mục các tạp chí/hội thảo khoa học không thuộc danh mục ISI/Scopus được chấp nhận tại chương trình đào tạo. Điều đó cũng thể hiện tính trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo đối với xã hội và cộng đồng khoa học.

Vai trò của các cơ sở đào tạo

Rõ ràng, với yêu cầu khắt khe hơn, sẽ thách thức người học nếu như vẫn phải học tập và nghiên cứu trong điều kiện hiện nay. Trong bối cảnh đó, rất cần sự thay đổi về chính sách, cách làm của các trường/viện có đào tạo TS. Theo quan điểm của chúng tôi, một số biện pháp sau đây có thể áp dụng được ngay mà không quá tốn kém:

Một là, đã đào tạo TS thì các chương trình phải đặt tiêu chuẩn trước tiên và trên hết cho chất lượng nghiên cứu và công bố kết quả. Điều này sẽ dẫn đến nhiều thay đổi, như hạn chế tỷ lệ NCS bán thời gian xuống mức rất thấp. Việc yêu cầu đa số TS học toàn thời gian cũng sẽ giúp loại trừ một cách tự nhiên các NCS đi học chỉ nhằm mục tiêu lấy bằng.

Hai là, chỉ cho phép các thầy nhận NCS nếu có đề tài nghiên cứu khoa học hỗ trợ. Nói cách khác, đây là cách giúp gắn kết nghiên cứu khoa học với đào tạo tiến sĩ - là một hoạt động đương nhiên mà cả thế giới từ lâu đã thực hiện. Việc gắn đề tài nghiên cứu với đào tạo NCS cũng sẽ giúp NCS có thêm kinh phí để thực hiện nghiên cứu hoặc có thêm thu nhập trong điều kiện đi học tập trung 100% thời gian. Người hướng dẫn, bên cạnh các yêu cầu theo quy định mới, cần công khai lý lịch khoa học cho NCS và xã hội tìm hiểu.

Ba là, các trường cần sáng tạo và thậm chí cạnh tranh để cung cấp cho NCS các phương tiện hỗ trợ nghiên cứu. Thí dụ, tham gia các seminar chất lượng, hướng dẫn sử dụng phần mềm, chủ động các chương trình điều tra, dữ liệu, hay hỗ trợ tài chính đánh giá và hướng dẫn sửa bản thảo tiếng Anh. Từ kết quả nghiên cứu cho đến một bài báo khoa học hoàn chỉnh là một khoảng cách dài, các nhà nghiên cứu ở trình độ NCS thực tế chưa đủ kinh nghiệm và kỹ năng để lấp đầy khoảng cách này, do đó nhiều nước không nói tiếng Anh như Trung Quốc, Thái-lan, Hàn Quốc… từ nhiều năm nay đã hỗ trợ NCS theo hướng nói trên để cải thiện chất lượng sản phẩm của họ.

Vai trò của cộng đồng chuyên môn

Hiện ở Việt Nam, các cộng đồng chuyên môn đã phổ biến, nhưng lại chưa tồn tại rõ trong từng phạm vi nghiên cứu hẹp, mà dường như chỉ tồn tại trong các nhóm lớn và đơn ngành (thí dụ Hội Toán học, Hội Vật lý, Hội Sử học…). Trong bối cảnh đó, yêu cầu mới về nghiên cứu trong đào tạo TS có thể là cú huých để phát triển mạng lưới cộng đồng nghề nghiên cứu hẹp, đi vào các hoạt động hỗ trợ nhau hiệu quả và cụ thể hơn: từ đề tài, dữ liệu, phương pháp, thậm chí cả quan hệ/thông tin/đầu mối tổ chức công việc. Việc tham gia và đóng góp cho các cộng đồng nghề “nghiên cứu” giúp ích rất tốt cho cả giảng viên hướng dẫn lẫn NCS.

Ý nghĩa khác của cộng đồng nghiên cứu hẹp là sự hình thành tự nhiên và thông qua hợp tác các nhóm nhà khoa học (thậm chí từ nhiều ngành khác nhau), liên kết và cộng tác (từng dự án hoặc dài hạn). Ở góc độ quản trị, các nhà làm chính sách rất cần tìm hiểu về sự tương tác đang tồn tại trong xã hội trên phương diện nghề nghiên cứu. Trong đó, một số trung tâm mạnh có thể đóng vai trò dẫn dắt một cách tự nhiên.

Trong hình minh họa là “mạng lưới” khoa học xã hội thực tế của Việt Nam, cho thấy sự kết nối giữa 410 nhà nghiên cứu người Việt trong và ngoài nước đã có công bố quốc tế (lấy từ dữ liệu Scopus) trong giai đoạn 10 năm từ 2008 đến 2017. Có thể thấy, đã xuất hiện các nhóm tuy nhỏ, trong đó một số đang mạnh lên nhanh chóng, và có độ lan tỏa tốt (thí dụ điểm 1,2,3). Các nhóm mạnh thường liên kết hay tạo ra các cá nhân mạnh, và/hoặc liên kết với các nhóm mạnh khác. Cũng thấy được vai trò quan trọng của nữ giới trong nghiên cứu khoa học xã hội. Tuy nhiên, cũng thấy tiềm năng để kết nối hiệu quả và tạo hiệu ứng cải thiện năng suất nói chung trên quy mô xã hội còn rất lớn, ủng hộ lập luận về giá trị của cộng đồng.

* Kích cỡ từng điểm càng lớn thể hiện tác giả có càng nhiều công trình công bố.

* Đường nối giữa các tác giả thể hiện mối quan hệ cộng tác cùng công bố bài báo khoa học.

(Hình trích từ kết quả của nhóm nghiên cứu mà những người viết bài này là thành viên).

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.