Bài toán tự chủ "đầu vào"

Sau giai đoạn bị ảnh hưởng nặng nề bởi tác động của đại dịch Covid-19, những tháng đầu năm 2022, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phục hồi và tăng trưởng mạnh, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực. Tuy nhiên, khi niềm vui vừa mới bắt đầu, các doanh nghiệp sản xuất đã phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức. Bối cảnh này càng tô đậm thêm những đòi hỏi về tính tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, trong thời đại mới.
Việc phụ thuộc nguồn nguyên phụ liệu dệt may từ nước ngoài đã tác động lớn đến sản xuất, kinh doanh của May 10. Ảnh: TTXVN
Việc phụ thuộc nguồn nguyên phụ liệu dệt may từ nước ngoài đã tác động lớn đến sản xuất, kinh doanh của May 10. Ảnh: TTXVN

Là quốc gia sản xuất nông nghiệp, nhưng hơn 60% nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam lại phụ thuộc nguồn nhập khẩu. Chỉ tính riêng bảy tháng năm 2022, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam đã phải chi tới gần 3,7 tỷ USD để nhập khẩu nguyên liệu. Trong đó, chi gần 2,7 tỷ USD để nhập ngô và đậu tương. Brazil, Mỹ và Canada là ba thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong nửa đầu năm 2022, với 99,2% thị phần.

Xuất khẩu tháng 7/2022 đã đem về 970 triệu USD, tăng 14% so cùng kỳ năm 2021, điểm sáng của bức tranh xuất khẩu Việt Nam, song ngành thủy sản đang cho thấy dấu hiệu chững lại. Một trong những nguyên nhân hàng đầu do giá thức ăn chăn nuôi tăng "phi mã". Trong khi giá thành sản phẩm lại có xu hướng giảm, thì thức ăn chăn nuôi cho tôm và cá tra, cá basa tăng trung bình 20% sau dịch. Chi phí thức ăn chiếm 65-70% chi phí sản xuất, khiến cho giá thành sản phẩm tăng, kéo theo giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bên cạnh thủy sản, hàng nghìn hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng lâm vào cảnh khốn đốn, không dám tái đàn, đành phải "treo chuồng"… chờ, đặc biệt là chăn nuôi lợn.

Đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp dệt may đã ký kết các đơn hàng đến hết quý III/2022, thậm chí đến hết năm. Để hoàn thành giao hàng theo các đơn đã ký, buộc các doanh nghiệp phải đẩy nhanh sản xuất, nhưng nguyên phụ liệu luôn là nỗi lo của các doanh nghiệp ngành dệt may khi phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu, nhất là thị trường Trung Quốc.

Là một trong những doanh nghiệp đầu ngành, Tổng công ty May 10 hiện đã có đơn hàng đến hết tháng 9/2022, riêng với mặt hàng veston đã có đơn hàng đến cuối năm; thế nhưng May 10 đang đối mặt nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng. Với 50% nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi nước này áp dụng chính sách Zero Covid, việc thiếu nguyên liệu ngay trong ngắn hạn và chi phí tăng cao đang hiện hữu. "Dù chi phí tăng cao, giá bán sản phẩm sẽ khó tăng, hoặc nếu tăng thì cũng không thể theo được tốc độ tăng của nguyên liệu đầu vào. Đặc biệt, việc thiếu nguyên phụ liệu trong ngắn hạn sẽ khiến các doanh nghiệp khó khăn khi đáp ứng đơn hàng cho đối tác", Tổng Giám đốc May 10 Thân Đức Việt chia sẻ.

Ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu cũng lâm vào cảnh tương tự. Năm 2021, giá nguyên liệu gỗ tăng khoảng 20%; từ đầu năm 2022 đến nay, tiếp tục tăng thêm 20%. Chỉ từ năm ngoái đến năm nay, giá nguyên liệu gỗ nhập khẩu tăng thêm 40%. Giải pháp được tính tới đó là gia tăng sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng trong nước. Vậy nhưng, do nhu cầu sản xuất dăm gỗ và viên nén tăng, dẫn đến giá thu mua tăng cao, nên hiện nay hơn 30% chủ rừng có xu hướng chặt non (rừng trồng mới chỉ 3-4 tuổi).

Dù có nhiều thuận lợi để tăng trưởng doanh thu (như: việc Trung Quốc - đối thủ cạnh tranh chính về sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường đang thực hiện chính sách Zero Covid sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch đơn hàng sang Việt Nam, thị trường trong nước có thể cũng phục hồi nhờ sự "ấm" lên từ thị trường bất động sản nhà ở…), tuy nhiên, bức tranh tăng trưởng của ngành sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam từ nay đến cuối năm được dự báo không mấy khả quan.

Một khảo sát nhanh của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cùng Tổ chức Forest Trends về tình hình tăng giảm doanh thu xuất khẩu của các doanh nghiệp ngành gỗ trong quý II/2022 cho thấy, khoảng 44% số doanh nghiệp cho rằng, với tình hình thị trường như hiện nay, nguồn thu của doanh nghiệp sẽ giảm khoảng 40% trong cả năm 2022.

Câu chuyện phụ thuộc quá lớn ở yếu tố đầu vào cũng xảy ra với ngành điện tử - ngành nhiều triển vọng, đang tích cực kêu gọi đầu tư từ nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã và sẽ đầu tư như: Samsung, Intel, Apple, Canon, LG,... nhưng hiện tỷ lệ nội địa hóa rất thấp, chỉ khoảng 5-10%. Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện bảy tháng năm 2022 vọt lên 50 tỷ USD, tăng hơn 25% so cùng kỳ năm ngoái, đưa nhập siêu nhóm hàng này vượt 18 tỷ USD…

Phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, gặp khó khăn khi giá nguyên liệu bất ổn, dường như là tình cảnh chung của rất nhiều ngành sản xuất trong nước. Các nguyên liệu mà Việt Nam thiếu lại là thế mạnh của các nước Nam Mỹ và Bắc Mỹ, những khu vực này đang chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Giá nhiên liệu xăng, dầu tăng cao. Căng thẳng xung đột giữa Nga-Ukraine khiến việc giao thương và hệ thống logistics gặp khó khăn. Đặc biệt, Trung Quốc, thị trường cung ứng nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam… được cho là những nguyên nhân chính khiến giá nguyên liệu đầu vào tăng cao.

Nguồn cung, giá cả nguyên phụ liệu nhập khẩu bất ổn không chỉ gây ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, mà sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng đến công nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam trong dài hạn.

Để giải "bài toán" tự chủ đầu vào, theo các chuyên gia, trước mắt cần phát huy vai trò các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài trong việc tìm kiếm, cung cấp và cập nhật thường xuyên danh sách các nhà phân phối, sản xuất xuất khẩu nguyên, phụ liệu cho các ngành dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ, sắt thép... Về lâu dài, cần nâng cao tính tự chủ của nền công nghiệp thông qua việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và một số ngành công nghiệp vật liệu cơ bản quan trọng để khắc phục những hạn chế do phụ thuộc nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện đầu vào nhập khẩu. Việc tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước là vấn đề cốt lõi, nhằm giảm sự phụ thuộc nguồn nhập khẩu, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.