Nỗ lực giảm phát thải qua chuyển dịch năng lượng

Giải pháp về quản trị, cơ chế, chính sách, các vấn đề về tài chính, công nghệ, kỹ thuật và lộ trình giảm phát thải… đang là đòi hỏi cấp bách. Để thực hiện, Việt Nam đang nỗ lực hiện thực hóa cam kết mạnh mẽ của mình về giảm mức phát thải thông qua chuyển dịch năng lượng công bằng và bền vững.
0:00 / 0:00
0:00
Dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị của T&T Group. Ảnh: HOÀNG ANH
Dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị của T&T Group. Ảnh: HOÀNG ANH

Cần chính sách đồng bộ

Để nghiên cứu, thực hiện các giải pháp, khuyến nghị lộ trình, các chuyên gia đề xuất cần có sự tiếp tục phối hợp nghiên cứu kỹ lưỡng, tham vấn chuyên gia tiếp theo ở nhiều góc độ (khuyến nghị hoàn thiện quy định chính sách cụ thể về tài chính, thuế, kiểm soát phát thải khí nhà kính, chuyển đổi công nghệ, đánh giá tác động đến phát triển kinh tế - xã hội).

Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam đã gợi mở để xây dựng định hướng chiến lược và kế hoạch chuyển dịch năng lượng bền vững nhằm đạt mục tiêu trung hòa carbon vào giữa thế kỷ 21. Những kết quả bước đầu của quá trình chuyển dịch năng lượng thời gian qua cho thấy, quá trình triển khai có thuận lợi và thách thức đan xen. Trong đó, khó khăn, thách thức là chủ yếu; các giải pháp về quản trị, trọng tâm là cơ chế, chính sách, pháp luật là yếu tố then chốt cho chuyển dịch năng lượng công bằng và bền vững.

Cùng với đó, các vấn đề về tài chính, công nghệ, kỹ thuật và lộ trình giảm phát thải cho các tập đoàn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu; vấn đề hợp tác, trong đó có hợp tác quốc tế ở các cấp độ toàn cầu, khu vực, quốc gia, địa phương, cộng đồng, giữa các ngành, lĩnh vực và các bên liên quan đóng vai trò hết sức quan trọng.

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng bền vững thông qua thực hiện các quyền lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.

Trong giai đoạn trước mắt, cần tập trung hoàn thiện thể chế về phát triển năng lượng, trọng tâm là nghiên cứu, đánh giá tình hình, rà soát hệ thống pháp luật phục vụ cho việc sửa đổi toàn diện Luật Điện lực, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Khoáng sản, xây dựng mới Luật Năng lượng tái tạo; thực hiện có hiệu quả giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong năm 2021 về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 - 2021”.

Nỗ lực giảm phát thải qua chuyển dịch năng lượng ảnh 1

Vận hành nhà máy điện rác Nam Sơn. Ảnh: NAM NGUYỄN

Hướng tới sự bền vững

Ông Nguyễn Đức Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam có một nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục. Nhu cầu sử dụng năng lượng, đặc biệt là điện năng ngày càng tăng cao. Để đạt các mục tiêu về phát triển kinh tế xanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng.

Trong đó, đáng lưu ý là ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Theo đó, đã đề ra quan điểm “Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

“Để thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành và địa phương đã và đang tập trung xây dựng và triển khai các chương trình, đề án, dự án, nhiệm vụ có liên quan”, ông Nguyễn Đức Hải nói.

Trong khi đó, ông Lê Quang Huy, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, chuyển dịch năng lượng bền vững nhằm giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất nhưng vẫn bảo đảm an ninh năng lượng và giảm tác động đến phát triển kinh tế - xã hội - môi trường là một xu hướng tất yếu ở quy mô toàn cầu mà Việt Nam đã kịp thời nắm bắt và bắt đầu thúc đẩy mạnh mẽ.

Đây là quá trình đòi hỏi những nỗ lực rất lớn của Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của quốc tế để giải quyết những vấn đề khó khăn, bất cập cả ở góc độ chính sách, quản trị, tài chính, công nghệ.

Giám đốc Dự án Năng lượng sạch, Chi phí hợp lý và An ninh năng lượng cho các quốc gia Đông Nam Á (CASE) Vũ Chi Mai chia sẻ, trong bối cảnh chống biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như tình hình cung ứng năng lượng truyền thống, chuyển dịch năng lượng hơn bao giờ hết trở thành một nhu cầu và giải pháp. Tiến trình chuyển dịch năng lượng cần sự đồng hành cam kết của nhiều cơ quan, đơn vị, diễn ra ở mọi cấp độ.

Chính vì vậy, tại Việt Nam, việc dự án CASE có cơ hội được làm việc với Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp, đại biểu cao nhất của nhân dân trong chủ đề này thực sự rất phù hợp. Bên cạnh việc tổ chức những diễn đàn đối thoại cao cấp, dự án cũng thực hiện những nghiên cứu đưa ra các bằng chứng cụ thể giúp Quốc hội giám sát và thúc đẩy tốt hơn nữa chuyển dịch năng lượng bền vững và công bằng.

Trong hai ngày 22 và 23/11 tại Hà Nội, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội và Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) đã phối hợp tổ chức Chương trình Đối thoại quốc gia: “Chuyển dịch năng lượng bền vững - Quản trị, Tài chính và Công nghệ”. GIZ và Dự án CASE đã rất tích cực tổ chức sự kiện này cùng với Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội để chia sẻ kinh nghiệm thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng trên thế giới, kinh nghiệm của Đức về chuyển dịch năng lượng bền vững, các chính sách của Việt Nam nhằm hướng quá trình chuyển dịch năng lượng cũng như vai trò của chuyển dịch năng lượng trong thích ứng và giảm biến đổi khí hậu.