Kỳ I:Sự thống nhất toàn vẹn
1.Văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội: Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề quan trọng cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tư tưởng đó đã được vận dụng triệt để trong Hiến pháp. Điều 14 của Hiến pháp sửa đổi chỉ ra rằng: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hộiđược công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật". Khổ hai của Điều 16 lại khẳng định: "Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội". Đây là một sự khẳng định dứt khoát vị trí của văn hóa trong sự phát triển của đất nước và con người. Tư tưởng đó xuyên suốt trong toàn bộ bản Hiến pháp này. Chính vì thế, khi Hiến pháp sửa đổi khẳng định: "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân" thì nội dung được khẳng địnhchính là những giá trị văn hóa cao đẹp nhất:"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện" (Điều 3). Những giá trị trên chính là giá trị văn hóa cốt lõi, đồng thời là mục tiêu văn hóa cao nhất mà chủ nghĩa xã hội cần đạt tới, được Hiến pháp khẳng định về chính trị và pháp lý.
2. Không chỉ là một lĩnh vực được coi trọng ngang bằng với kinh tế, chính trị và xã hội, văn hóa còn thấm sâu vào các lĩnh vực đó. Tư tưởng này được thể hiện cô đúc trong nhiều điều của Hiến pháp sửa đổi.
Trước hết, trong quan hệ văn hóa với kinh tế,trong các điều mục về kinh tế, Điều 50 của Hiến pháp sửa đổi chỉ ra nội dung cốt lõi định hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam. Cùng với những yêu cầu "xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế,... bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", có một yêu cầu mớiso với Hiến pháp 1992. Đó là kinh tế phải "gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội".Như vậy, văn hóa trở thành một thành tố hữu cơ, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của kinh tế.Đây là một quy luật trong sự phát triển kinh tế thời kỳ hiện đại, đồng thời là một bài học thực tiễn sâu sắc trong xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta thời gian qua. Sự tăng trưởng kinh tế chưa cân đối, tương xứng và hài hòa với văn hóa, vì thế, thiếu sự phát triển bền vững, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà của đất nước nói chung. Chúng tôi được biết, nội dung văn hóa này đã được bàn bạc rất kỹ trong điều đầu tiên về định hướng phát triển kinh tế (Điều 50). Đó là kết quả của tổng kết thực tiễn và là một bước phát triển của tư duy kinh tế được thể hiện trong bản Hiến pháp sửa đổi.
Trong quan hệ giữa văn hóa với chính trị,có hai nội dung cực kỳ quan trọng. Đó là về Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, hai thành tố quan trọng nhất trong hệ thống chính trị của nước ta. Ở Điều 4, Khổ 1 và Khổ 3, Hiến pháp sửa đổi khẳng định cơ sở chính trị và pháp lý vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam "hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". Nội dung này là sự tái khẳng định về chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1992 và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cái mới của Hiến pháp sửa đổi là ở Khổ 2 của Điều 4. Nếu hai Khổ trên (1 và 3) xác định sự lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng thì Khổ 2 khẳng định yêu cầu văn hóa rất cao đối với sự lãnh đạo đó: "Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình".
Ở đây, hình như cơ sở chính trị, pháp lý lùi về phía sau mà nổi bật lên chính là những đòi hỏi rất cao về các giá trị văn hóacủa Đảng. Những giá trị văn hóa này, xét đến cùng, có tác dụng sâu sắc củng cố niềm tin của toàn dân tộc đối với sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là một thách thức gay gắt đối với Đảng cầm quyền. Đánh mất giá trị văn hóa này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến uy tín và từ đó đến bản thân sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng trong xã hội hiện đại. Kinh nghiệm thời sự của một số đảng bị mất quyền lãnh đạo trong thế kỷ 20 vừa qua, có lẽ xuất phát từ một trong những nguyên nhân, chính là sự băng hoại các giá trị văn hóa trong đảng. Giá trị đó chính là sự gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình.
Trong quan hệ với cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, viên chức nhà nước, Hiến pháp sửa đổi nhấn mạnh những yêu cầu văn hóa và những giá trị văn hóa đạo đức. Đó là "phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân" (Điều 8). Những giá trị văn hóa này là điều kiện quyết định bảo đảm cho uy tín, quyền lãnh đạo, quản lý của cơ quan nhà nước. Việc nhấn mạnh những giá trị đó xuất phát từ quan điểm khẳng định, nhà nước của chúng ta là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đồng thời cũng từ tổng kết thực tiễn khi nghiêm khắc chỉ ra những "căn bệnh" xa rời, sách nhiễu, cửa quyền đối với nhân dân của một số cơ quan, một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Có thể nhận thấy, các nội dung trên vừa xác định cơ sở chính trị - pháp lý, đồng thời nhấn mạnh những giá trị văn hóa đối với đời sống chính trị của nhà nước ta. Phải chăng đó là một nội dung độc đáo của Hiến pháp sửa đổi.
3. Một bước phát triển mới của Hiến pháp sửa đổi là khẳng định dứt khoát quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong tất cả các quyền đó, Hiến pháp sửa đổi luôn luôn đề cập đến quyền văn hóavới những nội dung phong phú, toàn diện. Ở Điều 20, cùng với việc khẳng định quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về sức khỏe là sự nhấn mạnh đến pháp luật phải bảo vệ danh dự và nhân phẩm của con người. Đây là hai giá trị văn hóa sâu sắc và cao đẹp nhất mà dân tộc ta và loài người đấu tranh và bảo vệ đến cùng. Khẳng định hai giá trị văn hóa danh dự và nhân phẩmthể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văncủa Hiến pháp sửa đổi. Điều 25 khẳng định: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định". Đây là những quyền văn hóa cơ bản,cụ thể và thiết thân đối với một xã hội hiện đại mà mọi công dân đều có quyền thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.
Tại Khổ 2 của Điều 37, khi nói về thanh niên, Hiến pháp sửa đổi xác định: "Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân". Tất cả những nội dung này đều là những giá trị văn hóa sâu sắc đối với sự phát triển của thanh niên, tạo nên những giá trị cốt lõi trong nhân cách thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều 41, khi nói về quyền của mọi người, Hiến pháp sửa đổi khẳng định dứt khoát rằng: "Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa".Đây là một nội dung sâu sắc, dành riêng cho văn hóa, khẳng định những quyền cơ bản về văn hóa của con người bao gồm các khâu sáng tạo, hưởng thụ, tiếp cận, tham gia, sử dụng các sản phẩm, công trình, cơ sở văn hóa.Thiếu nó không thể hoàn thiện những yêu cầu về bảo đảm quyền con người trong xã hội hiện đại.
(Kỳ sau: Đổi mới mạnh mẽ, triệt để trong tư duy về văn hóa)