Nhiều trường tuyển sinh ngành học mới

Năm 2023, nhiều trường đại học tuyển sinh ngành học mới gắn với kỷ nguyên số nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và tăng cơ hội trúng tuyển cho thí sinh.
0:00 / 0:00
0:00
Việc mở nhiều ngành đào tạo tạo sức ép xin việc khi sinh viên ra trường.
Việc mở nhiều ngành đào tạo tạo sức ép xin việc khi sinh viên ra trường.

Nhiều ngành học mới hướng đến công nghệ, kinh tế số

Năm 2023, Trường đại học Ngoại thương sẽ mở hai ngành mới là Kinh tế chính trị và Kinh tế chính trị quốc tế. Trường dự kiến tuyển 4.100 chỉ tiêu (tăng 50 thí sinh so với năm 2022). Trường đại học Công nghiệp Hà Nội dự kiến mở một số ngành như: Năng lượng tái tạo, Kỹ thuật sản xuất thông minh, Công nghệ kỹ thuật điện tử y sinh, Ngôn ngữ học. Trường đại học Thủy lợi dự kiến sẽ mở mới ba ngành là: Ngôn ngữ Hàn, Ngôn ngữ Trung và Luật Kinh tế với chỉ tiêu dự kiến là 40 sinh viên/ngành.

Trường đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh tuyển sinh 8.250 chỉ tiêu và mở nhiều ngành học mới. Trường có năm chương trình đào tạo mới gồm các ngành học: Công nghệ tài chính (Fintech); Marketing công nghệ (Martech); Kinh doanh số (Digital business); Robot và trí tuệ nhân tạo (Robot & AI); Công nghệ logistics (Logtech); một chương trình song bằng mới về kinh tế chính trị - luật và quản trị địa phương. Tại cơ sở TP Hồ Chí Minh, trường tuyển sinh 7.650 chỉ tiêu với 51 chương trình đào tạo và tại Phân hiệu Vĩnh Long, trường tuyển sinh 600 chỉ tiêu với 14 chương trình đào tạo. Đặc biệt, trong năm 2023, trường sẽ cho ra mắt chương trình song ngành/song bằng tích hợp mới là: Kinh tế chính trị và luật, Quản trị địa phương. Trường giữ ổn định các phương thức xét tuyển như năm 2022. Tuy nhiên, trường sẽ tăng chỉ tiêu cho phương thức xét tuyển theo kết quả thi tốt nghiệp THPT.

Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh năm 2003 cũng mở mới nhiều ngành bậc đại học ở các trường thành viên. Trường thí điểm mở ngành Trí tuệ nhân tạo (Trường đại học Công nghệ thông tin); ngành Quản lý tài nguyên và môi trường, ngành Công nghệ vật lý điện tử và tin học (Trường đại học Khoa học tự nhiên); ngành Bảo đảm chất lượng và an toàn thực phẩm, ngành Thú y (Trường đại học An Giang); Khoa Y triển khai đào tạo ngành Y học cổ truyền và ngành Điều dưỡng.

Trường đại học Công nghiệp thực phẩm TP Hồ Chí Minh dự kiến mở năm ngành học mới trong năm 2023 gồm: Công nghệ tài chính, Khoa học dữ liệu, Luật, Logistics và quản lý chuỗi cung ứng, Thương mại điện tử. Trường đại học Lạc Hồng cũng sẽ tuyển sinh bốn ngành mới gồm: Kinh doanh quốc tế, Truyền thông đa phương tiện, Tổ chức quản lý dược, Dược lý và Dược lâm sàng.

Áp lực dư thừa nhân lực

Theo Luật Giáo dục đại học có hiệu lực từ ngày 1/7/2019, các trường đại học được tự chủ trong việc mở ngành đào tạo nếu bảo đảm điều kiện theo quy định.

Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TP Hồ Chí Minh cho rằng, việc mở ra ngành mới là tất yếu khi các trường được tự chủ. Việc này nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực khi đất nước ngày càng hội nhập và hướng đến cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời giúp các trường dễ thu hút học sinh để tuyển sinh tốt hơn. “Những ngành nghề mới được mở ra từ các trường đại học đều xuất phát từ quá trình nghiên cứu của từng trường với mong muốn nghề nghiệp cụ thể hơn, hấp dẫn hơn, gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế công nghệ, kinh tế số, đặc biệt là các lĩnh vực về trí tuệ nhân tạo, công nghệ kỹ thuật và thương mại điện tử”, ông Tuấn cho hay.

Tuy nhiên, theo ông Tuấn, mở ngành là một chuyện, tên ngành có thể hay nhưng quan trọng là chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên và việc bảo đảm được việc làm cho sinh viên sau khi ra trường sẽ thế nào, bởi có những ngành nghề quá cụ thể, doanh nghiệp cũng chưa cập nhật khiến sinh viên ra trường không có việc làm.

Dù quy định hiện hành không ngăn cấm bất cứ cơ sở đại học nào mở ngành học mới nếu đủ tiêu chuẩn nhưng việc nhiều trường lâu nay chỉ đào tạo ngành kỹ thuật, công nghệ mà mở thêm mã ngành kinh tế; nhiều trường chuyên đào tạo kinh tế lại lấn sân sang khối ngành y tế khiến không ít người lo lắng.

Theo GS, TS Phạm Tất Dong, Ủy viên Hội đồng quốc gia Giáo dục và phát triển nhân lực, không nên mở ngành đào tạo nếu chất lượng đào tạo không bảo đảm bởi có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và quy hoạch ngành nghề. “Nếu như mở ra các mã ngành khác chuyên môn truyền thống của mình thì chắc chắn là không thể có sự đầu tư như mong muốn được, cũng không thể mời được các chuyên gia giỏi nhất của ngành muốn đào tạo. Tôi cho rằng, nếu muốn đào tạo thêm về ngành nào thì nên giao cho chính ngành đó làm chứ không phải tự đề xuất ra để làm”, GS, TS Phạm Tất Dong nêu ý kiến.

Một lo lắng khác là việc mở thêm nhiều ngành khiến hệ thống ngành nghề bị trùng lặp; có nhiều ngành mới mở ra thực chất chỉ là dựa trên những ngành cũ hoặc cùng lĩnh vực nhưng mỗi trường đặt tên một kiểu nhằm thu hút thí sinh. Điều này ảnh hưởng và gây khó khăn trong việc tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh.

Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành đăng ký đào tạo phải phù hợp nhu cầu của xã hội và người học, với yêu cầu nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của trường. Việc mở ngành phải đáp ứng các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu cơ hữu, cơ sở vật chất, thiết bị, giáo trình theo yêu cầu từng nhóm ngành nghề khác nhau.

Ngoài ra, việc các trường ồ ạt mở ngành mới cũng dẫn đến nguy cơ có quá nhiều trường đua nhau mở những ngành đang thu hút đông người học, sau một thời gian khiến thị trường nhân lực bị bão hòa.

Nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng, việc giao quyền cho các trường đại học được tự chủ phải gắn với yêu cầu kiểm soát chất lượng. Mặc dù các điều kiện, tiêu chuẩn để trường đại học mở các ngành và chuyên ngành mới hiện nay là rất chặt chẽ nhưng vẫn cần phải siết chặt hơn nữa.

Các trường đại học mở thêm ngành đào tạo mới không chỉ tạo điều kiện cho thí sinh có thêm nhiều lựa chọn ngành học mà còn giúp các trường thu hút thêm sinh viên. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thất nghiệp tràn lan, lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc, thì các trường cần cân nhắc các ngành nghề mới, làm sao đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.

Việc nhiều trường đại học trên cả nước công bố mở thêm nhiều ngành mới bước đầu cho thấy những dấu hiệu tích cực của chủ trương trao quyền tự chủ cho các trường đại học, giúp đa dạng hóa dịch vụ đào tạo, hạn chế tình trạng độc quyền đối với một số ngành nghề, gây sức ép cạnh tranh để mọi đơn vị đào tạo, mọi ngành nghề đều phải đổi mới, nâng cao chất lượng. Về phía người học, thí sinh có thêm nhiều lựa chọn những ngành học mới, tại nhiều trường đại học khác nhau trên cả nước mà không phải dồn về các đô thị lớn nơi có các trường, các ngành học hấp dẫn lâu nay, giảm chi phí cho họ, giảm áp lực về dân cư cho các đô thị như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, tốc độ mở rộng các ngành đào tạo quá nhanh có thể gây ra những tác động ngoài mong đợi. Một số trường vì muốn thu hút nhiều sinh viên đã mở thêm nhiều ngành mới với tên gọi hấp dẫn nhưng thực chất là “bình mới rượu cũ”. Trong khi đó, lại có tình trạng, các trường mở ra thêm nhiều ngành mới mà chưa sẵn sàng về nguồn nhân lực giảng dạy và cơ sở vật chất, dẫn đến chất lượng đào tạo không bảo đảm. Mỗi trường đại học có một số ngành học có thế mạnh nhất định. Việc mở ra quá nhiều ngành mới có thể dẫn đến tình trạng, một số ngành không đủ học sinh để tổ chức lớp học. Bên cạnh đó, sự đa dạng hóa quá nhiều ngành học mới có thể gây khó khăn trong việc tư vấn, hướng nghiệp cho các em học sinh. Và nhiều ngành nghề sau khi tốt nghiệp rất khó xin việc vì không phù hợp nhu cầu của thị trường lao động.

Theo TS Lê Viết Khuyến, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học - cao đẳng Việt Nam, việc các trường đại học mở thêm nhiều ngành mới không phải là vấn đề đáng lo ngại. Quan trọng phải là kiểm soát chất lượng chương trình, đội ngũ giảng viên đủ trình độ và điều kiện thực hiện đào tạo. Điều chỉnh như thế nào thì cũng phải bảo đảm chất lượng đào tạo, muốn bảo đảm trường mở ngành mới mà trước đây chưa có thì phải xem xét chuẩn bị cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên như thế nào, phát triển các chương trình đào tạo như thế nào. Điều này quyết định chất lượng của nguồn nhân lực, nếu khâu chuẩn bị không tốt thì nguồn đào tạo ra không tốt sẽ ảnh hưởng chất lượng lao động.